Saturday, June 27, 2009

Món dưa củ cải của bạn tôi , anh Tenzin

Món dưa củ cải của bạn tôi , anh Tenzin

Chúng tôi thật kinh ngạc khi nhìn vào những dĩa thức ăn Tây Tạng chỉ có chút ít củ cải trắng. Thường thường củ cải trồng tại đây , to và trắng muốt , giống như bà con của nó , loại củ cải daikon trồng trên vùng đất cao (có tên là icicle radish hay từ tiếng Hindi mà ra , Mooli ). Một số củ cải có vết ửng hồng và đôi khi khá tròn thay vì dài thuồn thuột. Trong cuốn sách này chúng tôi sẽ dùng chữ " daikon " để chỉ giống củ cải Tây Tạng trong nghê thuật nấu nướng cổ truyền Tây Tạng .

Tại Tây Tạng , củ cải được coi như một loại gia vị trên bàn ăn , giống như một đĩa gỏi trộn đậm đặc. Củ cải trắng được mài xát thành bột , và được ngâm dấm chua và để yên đó trong vài ngày , xong có thể dọn ra ăn. Giống như các món phụ khác , món dưa củ cải có thể biến thể khá nhiều , tùy theo khẩu vị của người đầu bếp hay truyền thống gia đình.

Chúng tôi học cách thức chế biến này từ một người bạn chúng tôi Tenzin ở Lhasa. Chúng tôi từng quen biết ông ta từ năm 1985 ở Tây Tạng , lúc đó ông ta đang quản lý một quán trọ cho du khách gần đền thờ Jokhang. Mỗi khi chúng tôi tới thành phố Lhasa đều viết thư báo cho ông Tenzin trước để đặt một phòng chúng tôi ưa thích. Chúng tôi dạy vài bài tiếng Anh cho ông ta , khi đó còn ngồi trên mái nhà bằng phẳng , nhìn qua những khu phố cổ của Lhasa , tới tận những ngôi đền trang hoàng vàng rực rỡ và các ngọn đồi xa xa.

Rồi sau mười chín năm xa cách , tôi quay trở về đây , biết rằng anh ta đã lập gia đình và có công việc tốt. Thật vui vẻ khi anh ta đã an cư lập nghiệp. Tôi đặt nhiều câu hỏi về thức ăn với anh và cùng nhau nghiên cứu về ẩm thực trong nhà bếp , nói về căn bản nấu nướng , kể cả cách thức làm món dưa củ cải này. Anh Tenzin bảo rằng người khác hay cho tỏi hoặc bột ngọt (mì chính) vào. Nhưng chúng tôi thích cho gừng , ớt Tứ Xuyên , hành scallion và hành tây thôi.

Loại dưa củ cải này có vị dấm chua hăng hắc , và có nghĩa chỉ được dùng như món gia vị thôi , ăn kèm với cơm và thịt. (Nhưng tôi lại thích xơi mà không theo lối cổ truyền : đầu tiên dùng bánh mì , nướng sơ sơ , rải tí bơ lên mặt , rồi thì trét nhiều dưa củ cải này lên.)

Củ cải được cắt thành miếng dài vuông vắn , sau đó đem đi mài. Hoặc là cắt nhỏ ra rồi dùng máy xay Benriner hay máy xay nào đó cũng được. Xay xong cho vào lọ , thêm thắt hương vị , thêm muối và dấm , đóng kín cái lọ lại và lắc cho thật đều. Sau đó đem phơi nắng vài ngày để tự nó lên men. Vào ngày trời ấm , dưa của cải mất 2 ngày , nếu như ngày âm u hay lạnh lẽo phải đến 4 ngày.

Bởi vì củ cải có sẵn quanh năm , loại dưa này lúc nào làm cũng được và có thể bảo quản trong tủ lạnh được vài tuần. Khi nào thấy cái lọ dưa cạn dần là lúc đi làm lọ khác là vừa.

1/2 kí củ cải trắng
2 nhánh hành scallion
1/2 củ hành tây, băm nhỏ
2 thìa gừng đã bầm nhuyễn
1 thìa tỏi đã xay
2 thìa muối kosher
1 thìa ớt khô Tứ Xuyên xay
3 chén dấm

Cho củ cải , hành tây , hành lá to , gừng vào một cái tô to và lắc cho đều. Cho phân nửa vào một cái lọ chừng 4 lít và thêm vào một thìa muối , tỏi , ớt khô. Xong rồi đổ phần củ cải còn thừa vào , nhớ thêm 1 thìa muối vào. Rót dấm vào , phủ đầy các lớp. Đóng kín nắp lọ lại và lắc cho đều.

Đặt lọ dưa vào chỗ có ánh nắng vào khoảng 2 đến 4 ngày. Thỉnh thoảng ra lắc cái lọ để cho mọi thứ ngấm đều. Bây giờ có thể ăn được rồi đấy. Nếu bảo quản tốt trong tủ lạnh có thể dùng bao lâu cũng được.

Muốn ăn , hãy dùng đũa hay muỗng sạch múc ra cho vào một cái chén.

Tương hành tây - cà chua (Tomato-Onion Chutney)

Mien Bo

Tương hành tây - cà chua (Tomato-Onion Chutney)

Vào một ngày một phụ nữ người Tây Tạng tên là Tsai cùng với tôi đi dùng cơm trưa ở Labrang , tới một quán ăn nhỏ và ngồi trên tầng nhì , tầm mắt phóng ra cả con phố chính . Cô Tsai gọi món Sha-pa-le (Savory Tibetan Bread), còn tôi kêu món Ping-sha (Beef with Mushroom and cellophane Noodles) . Bánh mì được chiên dòn (deep-fried) , từng miếng nhỏ và ngon tuyệt vời , kèm theo món tương cà chua dịu dàng . Một món mới ư , được coi như là món ăn kèm trong ẩm thực người Tây Tạng ; hình như có chút gì của người Tây Tạng quay trở về quê hương từ Ấn Độ hay Nepal .
Đây là món ăn phụ kèm cho các món Momos phô mai hay là bánh dòn (deep-fried snack) , cũng như các món thịt bò heo nướng hay quay dòn .

2 thià dầu đậu phọng hay thực vật
1/4 thìa hạt cumin (thì là Ai cập)
1/2 chén hành tây xắt mỏng
1 trái ớt đỏ
2 trái cà chua vừa , thái mỏng
1/2 bó ngò ta hay ngò gai (Chinese celery leaf)

Đặt chảo lên bếp , lửa mở vừa . Cho hạt thì là vào , rang lên sẽ nghe tiếng tanh tách và toả hương thơm , chừng 20 giây cho hành tây và ớt vào . Khuấy sơ sơ , cho 1/2 thìa muối vào . Cứ trộn như thế đến khi nào hành tây đổi thành màu hơi trong , chừng 5 phút .

Cho cà chua vào , khuấy đều chừng 1 phút hay hơn , đến khi nào hơi sền sệt là được .

1. Labrang : Trung quốc gọi Lạp Bốc Lăng Tư, nằm trọng quận Hạ Hà (Xiahe) , tỉnh Cam Túc .
2. Ping sha : Một món ăn cổ truyền của người Tây Tạng , miến gà hay bò thêm thắt cà chua , gừng , nấm , hành và tỏi .

TS dịch ngày 24.5.09

Saturday, May 16, 2009

Mận Hog Plum (Picture is from Yahoo)

Cà chua Mễ Tomattilo (Picture is from Yahoo)

Món salsa chua chát xanh màu của người Đại

Món salsa chua chát xanh màu của người Tày
(Dai Tart Green Salsa)

Giống như bà con của họ Lào và người Shan , người Tày sống ở miền nam tỉnh Vân Nam là những người thích ăn những món nướng đầy màu sắc rực rỡ . Không những chỉ là dùng lửa để nấu nướng mà họ còn dùng để truyền đạt (1) hương vị đặc trưng vào nhiều loại món ăn . Lần đầu tiên chúng tôi được thưởng thức món salsa ô liu màu xanh lục tại nhà một người Tày ở Menghan , một thị tứ nhỏ bên dòng sông Mekong cách biên giới Lào một ngày lái xe .

Món salsa này là một thành viên trong gia đình các món ăn được nổi tiếng "Jaew" trong ngôn ngữ Thái . Các thành phần được nướng trước rồi đem đi xay hay giã nhuyễn thành hồ bột (2), sau đó mang lên phục vụ như một món chấm trong bữa cơm . Thành phần chính yếu ở đây là Makawk , một loại trái cây chua , theo tiếng Anh là Hog plum . Một loại quả tương tự như vậy là tomatillo , một loại cà chua ở Bắc Mỹ .

Hương vị được hài hòa giữa độ chua chát a xít của trái cây và sự ngọt dịu của hành củ và tỏi , định vị bởi sự đầm ấm của thịt nướng (3) . Có thể đây là một trường hợp hiếm hoi của món ăn salsa miền Đông Nam Á lại không có vị cay nồng của ớt đỏ .

Salsa này được dùng với thịt nướng vĩ hay quay dòn , như là Gà Nướng của người Thái hay là Heo Quay (4) hoặc là dùng như nước chấm cho xôi .

300 gram cà chua tomatillos (hay là hog plum )
1 chén hành củ
1 tép tỏi
1/4 chén nước
1 thìa muối
100g thịt heo xay
1/2 chén ngò xắt nhỏ

Nếu để nướng , chuẩn bị bếp than hay ga với ngọn lửa trung bình . Dùng một cái vỉ sắt đặt trên bếp , và cho hành củ , cà chua tomatillos và tỏi lên trên vỉ. Nếu không có vỉ sắt , dùng một cái chảo thay thế cũng được . Nướng làm sao cho thành phần được mềm và vỏ ngoài được lấm chấm đen do lửa cháy , khoảng chừng 10 đến 15 phút , tuỳ theo cách thức bạn nướng . Xong đem ra ngoài để nguội .

Rồi thì , đặt một nồi nước đun cho sôi , thêm muối , thịt heo xay vào , quấy cho đều để cho thịt đừng dính thành cục . Đến khi nào thịt đổi màu , độ chừng 1 phút . Mang ra ngoài để riêng ra .

Lột vỏ cà chua , hành củ , và tỏi . Loại bỏ các mẩu đen do bị nướng cháy . Cho chúng vào máy xay , bấm một chút vài giây rồi ngừng , chừng nào thấy hỗn hợp khá lổn ngổn (5) . Nghiêng đổ sang một cái chén , rồi cho thịt heo cả cái lẫn nước vào , khuấy cho đều .

Trước khi dọn lên bàn , cho thêm ngò ta vào . Thêm muối cho vừa miệng . Xong cho cái tô kiểu , và nhớ đặt thêm cái muỗng để cho khách dùng .

Phần còn lại nếu dùng không hết , đậy kín lại và cho vào tủ lạnh ăn dần .

1. impart
2. paste
3. they're anchored by the warm taste of the grill .
4. Lisu Spice-Rubbed Roast Pork .
5. a coarse sauce texture

Saturday, May 2, 2009

Miền đất nóng Turpan như Hỏa diệm sơn , được miêu tả trong Tây Du Ký. Trong truyện này mấy thầy trò Đường Tăng qua một nước Tư Hấp Lý , gặp Hoả Diệm S

Thành phố Turpan (Hình từ Wikipedia)

Chợ búa tại thành phố Turpan (Hình từ TravelChinaGuidẹcom)

Mùa hè 1980

Giống y như khuôn đúc vào những năm 1970 , các tấm hình chụp những con đường phố ở Trung Quốc tràn ngập các dòng người cỡi xe đạp với bộ áo quần màu sắc ảm đạm . Không xanh đen , xanh lờ mờ thì xám đục đen bạc màu là những sắc màu được nhìn thấy trong những bức hình chụp phô tô tương phản với màu cờ Trung Quốc đỏ tươi thắm . Trung Quốc hình như là một nước trong bức họa một màu (1) , một sân khấu được trang trí với đám đông người ăn mặc giống như nhau , không còn là cá thể và giới tính , khó phân biệt ra . (2)

Khi tôi (tác giả bà Naomi) đến Trung Quốc lần đầu tiên , vào mùa hè năm 1980 , nơi nào cũng thế , đều giống y hệt như các tấm hình đó . Các du khách bất chợt đi thăm viếng một nơi nào đó , với tư cách du hành độc lập đều bị cấm đoán , vì thế tôi đi chung với một đoàn du lịch Mỹ . Trong chuyến tham quan một tháng này chúng tôi đáp phi cơ , xe lửa (3), và xe buýt tới khắp vùng ngoại biên của Vạn Lý Trường Thành cũng như các thành phố khác của Trung Quốc (Bắc Kinh , Tây An , Quảng Châu ) . Chúng tôi được thưởng thức các bữa ăn đầy trau chuốt tỉ mỉ do các bếp trưởng trứ danh nấu , sang trọng như trong đại tiệc , có nghĩa là ở đây có nhiều món tinh tế (4) tao nhã hơn , và cơm chỉ một chút ít thôi .

Quảng trường rộng lớn của Thiên An Môn ở Bắc Kinh trong giờ cao điểm tấp nập người đạp xe , hiếm hoi lắm mới thấy bóng dáng xe hơi . Các thành phố đều yên lặng , ít tiếng bóp còi , chỉ nghe tiếng leng keng của còi xe đạp vang lên hoặc tiếng lục bục của xe đẩy hàng . (5) Dân chúng e ngại khi nói chuyện với chúng tôi , nhưng cùng lúc lại tò mò hiếu kỳ với khách ngoại quốc . Họ bu quanh chúng tôi , nhưng khi bóng dáng một anh công an hay cán bộ nào đó , họ vội rã đám ra ngay , có lẽ họ không muốn bị phiền phức . Đây là một kinh nghiệm thực sự đầu tiên của tôi đã trải qua về một nước chuyên chế. (6)

Hơn mười năm , trong suốt Cuộc Cách Mạng Văn Hóa và sau đó (1966-1976) , các vấn đề tôn giáo , văn hóa đều hoàn toàn bị khống chế , dập tắt . Học viện bị đóng cửa , thành viên bị bắt giữ hoặc giết chết , ảnh hưởng ngoại quốc đều bị nhổ sạch đến tận gốc và tiêu hủy đi . Khi Mao Trạch Đông chết vào năm 1976 , hình như chế độ được cởi mở đôi chút . Các hướng dẫn viên kể lại cho chúng tôi nghe về sự sụp đổ của " Bè Lũ Bốn Người (Gang of Four) , họ bị bắt sau khi ông Mao chết được một tháng và bị kết tội về tội quá hăng say trong Cách Mạng Văn Hóa và Tứ Hiện Đại Hoá. (7)


Cũng có lời đồn đãi về sự cởi mở và tự do về thương mại tư nhân , tôn giáo và truyền đạt văn hóa . (8) Ở thành phố Tây An (Xían) chúng tôi đi thăm một đền thờ chính Hồi giáo , mới được mở lại và rất xinh đẹp . Chúng tôi không biết nhiều về người Hồi . Ở tỉnh Tân Cương , dân Hồi Hột trong các thành phố Urumqi , Turpan (10) và người Kazakhs trong các dãy núi ăn mặc với các y phục đầy màu sắc - phụ nữ mặc váy và bịt khăn trên đầu thay vì như phụ nữ Trung Hoa với các loại quần dài mầu xám xịt , đàn ông thì vẫn mặc quần áo theo mốt ông Mao , nhưng lại thêm cái mũ chỏm thêu thùa và mang các kiểu giầy ống bằng da khiến họ nhìn vẫn khác người Hán , có thể phân biệt ra từng người .

Tại tỉnh Tân Cương chúng tôi mới thấy thực phẩm bày bán ngoài đường ( hầu hết là dưa được chồng chất lên nhau , vài loại rau và bánh mì dẹp ) . Trong vùng trung tâm Trung Quốc , muốn đi mua sắm , chỉ có các cửa hàng nhà nước , nơi xám đen , dữ dằn , không cần buôn bán nhiều và với nhân viên nhà nước cáu kỉnh không hề tỏ ý phục vụ khách hàng . (11) Ít kệ được chất đầy hàng , chỉ có trong khu ngoại tệ , nơi mà Mỹ kim và ngoại tệ nào có giá (hard currencies)) mới chấp nhận được .

Tôi ra đi và mang theo cuộc hành trình quyến rũ bởi các hình ảnh lờ mờ về các sắc dân không phải là Hán tộc sinh sống ngoài vùng Vạn Lý Trường Thành . Tôi muốn biết họ suy nghĩ làm sao , về sự cai trị bởi chính quyền trung ương và do đa số là người Hán . Tôi tự hỏi nếu như tôi được tự do thong dong đến các vùng Nội Mông hay trên Con Đường Tơ Lụa , hoặc giả như có khả năng thêm thời gian ở Tây Tạng và các miền có bộ lạc ở phương Nam . Hình như trong khoảng thời gian đó khó có thể xảy ra được ....


Chú thích :
1. monochrome .
2. deindividualized, and desexualized .
3. xe lửa , tàu hỏa (Train) : không biết bây giờ có nên gọi là xe lửa hay không , vì giờ đây máy chạy bằng điện hay xăng dầu .
4. refined dishes .
5. wheeled carts .
6. totalitarian state .
7. Four Modernizations . (pinyin: sì gè xiàn dài huà)
8. cultural expression
9. Urumqi : Bính âm: Wulumùqí) là thủ phủ khu tự trị Tân Cương, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố này có diện tích 10.989 km2, dân số năm 2005 là 2.681.834 người, nằm ở tây bắc Trung Quốc. Đây là thành phố cách xa biển hơn bất cứ thành phố lớn nào trên thế giới. Urumchi có dân số 75,3% là người Hán, 12,8% là người Yughur (Duy-ngô-nhĩ), 8,03% là người Hồi, 2,34%người Kazakh
Hai ngàn năm trước, Ürümqi là một đô thị quan trọng nằm trên con đường tơ lụa . (Nguồn : Wikipedia)
10. Turpan hay là Turfan là một thành phố của tỉnh Tân Cương , nằm trên Con Đường Tơ Lụa . Nơi đây được coi như nơi thấp nhất của Trung Quốc và điểm thấp nhất sau Biển Chết ở Do Thái , 154 mét dưới bề mặt nước biển . Khí hậu khô và nóng , có khi nhiệt độ lên tới 50 độc C . Người dân ở đây phải dùng "Karez" , một hệ thống nước ngầm để cung cấp nước cho thành phố . Hỏa Diệm Sơn (Flaming Mountain) ở Turpan được nổi tiếng trong truyện Tây Du Ký . Tuy vậy thành phố này nổi tiếng về nho cũng như rượu nho Lou Lan uống thơm như rượu bồ đào Tokay của Hung ga ri .

11. Đoạn này hơi lủng củng , nguyên văn như sau : " In the cities of the Central China , the only shopping possibilities were department stores , drab, grim places with not much for sale and very surly goverment-employed staff with no interest in helping customers ."

Tung Son dịch , ngày 2 tháng 5 năm 2009

Sunday, March 29, 2009

Thị xã Chong ' an (Hình của tác giả Adam)

Mua ba'n no'n (Picture is taken by Adam)

Giac hoi ( Picture of Adam )

Tương cà chua tươi nguyên tại các sập ngoài chợ

Tương cà chua tươi nguyên tại các sập ngoài chợ
(Market stall fresh tomato salsa)

Món ăn này có thể không co' mo'n na`o đơn giản hơn . Giống như mọi món ăn khác , nó đòi hỏi các thành phần căn bản ; ra chợ mua cà chua chín đỏ về làm ngay . Nó gợi cho chúng tôi nhớ lại món " pa amb tomàquet (1) , có quét phủ trên mặt , bánh mì trét cà chua Catalan ngon tuyệt vời .

Được đãi ăn bằng rau sống ở Trung Quốc thật hiếm hoi , hầu hết rau rợ được nấu chín khi dọn ra bàn . Tôi chợt đi ngang nhìn thấy món cà chua giã này trong một chợ quê tỉnh Quí Châu , một thị tứ có tên Chong'an . Đó là một trong những món gia vị và lớp phủ (topping) trên mặt các món ăn bày bán trên các sập bán mì sợi bún sợi . Hương vị tươi thắm của cà chua chín đỏ rắc thêm tí muối và ít dầu mè hoà quyện với nhau tạo thành mới sự khám phá mới .

Tương này khách có thể chan vào tô mì sợi , hay dùng với xôi hay dùng bánh tráng vụn (chip) để chấm cũng được . Nếu là tô mì sợi , cho một chén nhỏ tương cà chua vào cho mỗi phần ăn , còn như dùng như gia vị , cứ một chén là một muỗng tương cà chua .

Công thức :

- 4 trái cà chua chín đỏ , loại vỏ mỏng
- 1 củ hành tây , xắt hột hay 1 một muỗng hẹ thay thế
- 1/2 hay 1 muỗng dầu mè
- một muỗng nhỏ muối hột

Cà chua cắt thành miếng vừa miệng , cho vào một cái liễn . Dùng muỗng ép cà chua cho nhuyễn . Thêm hành xắt hay hẹ và dầu mè . Trộn cho đều , nếm thử và thêm muối hay dầu tùy ý .


Bài đọc thêm của tác giả khác

Chợ Chong'an , Quí Châu
Bài viết của Adam
1.11.2008

Sương mù và làn mây dày đặc bao trùm thị tứ Chong'an tạo thành bầu khí quyển kỳ lạ . Nước sông tĩnh lặng và lóng lánh như tơ như một bể chứa nước . Cả thị xã và cảnh quan dường như lắng đọng , đẹp như tranh vẽ . Yên tĩnh ngự trị mọi nơi . Đột nhiên có tiếng la , tiếng mặc cả , là hét ầm lên . Chợ Chong'an đến giờ mở cửa .

Chợ Chong'an khổng lồ họp chợ năm ngày một lần là một điểm kỳ thú đầy màu sắc nhất ở Quí Châu . Người Miêu, người Gejia thuộc dân tộc thiểu số đổ tràn ra chợ tranh cãi mua bán , họ đưa hàng vào chợ sáng tinh sương và ngồi đến quá trưa . Giống như các chợ khổng lồ ở Anshun và Rongjiang , chợ Chong'an là khu chợ vườn , không phải là nơi bán các đồ lưu niệm , mà là nơi lý tưởng cho người dân ngắm thưởng , mặc lấy bầu không khí ấy . Từ tờ mờ sáng chúng tôi đã có mặt ở đây , mọi thứ như là mới khởi sự . Hàng đoàn người Miêu trong trang phục xanh chàm và quần đen với chiếc nón rơm rộng vành , đàn bà quấn khăn xếp trắng tinh uà tràn ngập vào chợ từ các mọi ngả . Thỉnh thoảng có xen kẻ phụ nữ người Geija , bà này nhận ra bởi cái nón đủ màu với hai cánh nhọn đầu và cái tạp dề thêu hoa . Đàn ông ăn mặc trong quần áo nhà nông đơn sơ và cùng với chiếc nón rơm đó . Một số qua chợ bằng phà , một số băng qua chiếc cầu gỗ bắc ngang con sông chảy xuôi vài cây số xuống .

Chợ được chia thành hai khu . Một bên bán gia súc , gà vịt chim muông kêu oang oác trong các lồng tre chờ khách tới mua . Heo lợn bày bán trong khung gỗ dưới cuối sông . Trong khu chợ rau trái , các sập chuyên bán ớt chất hàng đống cao như núi , chỉ rõ tính quan trọng trong nền ẩm thực Quí Châu , các món ăn cay đầy ớt đỏ .

Ngoài ra chợ Chong'an có nét đặc trưng nữa là có khu chuyên bán quần áo vải vóc và mũ nón . Các bà người Miêu đan và bán loại khăn xếp đặc biệt của họ . Bạn có thể trông thấy cảnh họ ngồi các bà xếp , quấn khăn lên đầu khách hàng của họ . Một góc khác vài khách hàng ngồi trên ghế nhựa chờ giác hơi . (2), một phương cách y học cổ truyền Trung Hoa . Giác hơi có lẽ phổ thông . Đây là phương pháp dùng chén thủy tinh hơ nóng rồi úp lên phần cơ thể nào muốn điều trị . Nơi bị giác sẽ được lưu thông bởi vì năng lực nơi đó bị tắt nghẽn , mà người Trung Hoa gọi là Khí (Qi) , và bây giờ đượu lưu tỏa cả châu thân . Cái này họ nói để giúp các cơ năng , sinh vật chống lại độc tố và phục hồi lại sức khỏe .

Đến và đi :
Chúng tôi từ Zhenyuan đến Chong'an bằng xe hơi thuê . Hành trình khoảng chừng hai tiếng rưỡi kể cả đôi lúc chúng tôi dừng lại . Tuy nhiên nếu bạn dùng phương tiện di chuyển công cộng , tốt hơn nên từ Kaili , nơi đó có sẵn xe đò chạy liên tục .

Tiện nghi :
Chúng tôi thấy có vài nhà nghỉ khá xinh và đơn sơ với các biển đề là Chào Mừng Khách Ngoại bên chiếc cầu gỗ treo . Gần đó có vài con đường dẫn đưa tới các làng mạc người Miêu .

Thức ăn :
Ngoài chợ có dãy bán thức ăn , mì sợi , bún và vài món đơn sơ . Đặc biệt ở đây , cũng như hầu hết các thị tứ nhỏ của Quí Châu , lẫu thịt chó . (dog hot pot)


Chú thích của dịch giả

1. pa amb tomaquet : loại bánh mì nướng với lới cà chua phủ cà chua trên mặt , thêm tí muối , dầu ô liu . Trong nhà hàng người Catalan , cà chua được pha chế sẵn và quét lên mặt bánh mì . Dùng với xúc xích , thịt nguội ham , phô mai , cá mòi anchovy hay là với rau nướng như escalivada . Món này tương tự như món bruschetta của Ý .
2. cupping : giác hơi

29.3.2009

Thursday, March 26, 2009

Gia vị và nêm nếm

Gia vị và nêm nếm

Mỗi nền văn hóa ở vùng ngoại biên Vạn Lý Trường Thành khi chúng tôi tiếp xúc đều có một loại tương salsa hay lọ gia vị đặt để trên bàn ăn hầu thay đổi hương vị và cho khách ăn một cơ hội thay đổi khẩu vị và cho thức ăn được đậm đà hơn chăng . Chúng tôi ưa thích tính cách đơn giản và sắc màu tươi sáng của chúng .

Tương, xốt và " chutney " (1) là món ăn kèm theo với thịt nướng và thức ăn chiên thật dòn ; chúng tôi thích được dùng cơm cháy dòn , bánh bích qui chấm chung với nó . Chúng tôi chỉ dám đưa ra một vài món thí dụ . Có món tương ớt đỏ tươi , giã nhuyễn từ loại ớt cayenne cay nồng ; bánh nhân hoa quả với tương rau nướng chín của người Dai (Thái) miền nam Vân Nam ; tương cà chua tươi thắm từ Quí Châu ; xốt rau thơm giản đơn (ngò hoặc húng ) của người Mông Cổ ; xốt chutney của cộng đồng người Tây Tạng ở trung tâm Tây Tạng , Thanh Hải và Cam Túc .

Hầu hết các miền đất ngoại biên Vạn Lý Trường Thành cũng như mọi nơi trên thế giới có mùa đông khắc nghiệt , mùa thu là lúc bảo quản hoa màu và phơi khô các loại thịt . Trong một nông trại tận miền bắc xa xôi của Nội Mông , với một cái lò nướng bằng gạch to lớn trong nhà bếp , bà Naomi trông thấy hai vại rau cải được ngâm trong dung dịch muối và từ từ biến thành dưa chua , và ngoài sân sau cũng có một vại dưa muối , nhìn na ná như dưa muối Kimchi của người Hàn quốc . Dưa và mứt (2) ban đầu phát xuất từ sự khan hiếm lương thực mà ra . Bây giờ chúng nó lại trở thành món ăn ngon , đậm đà tăng thêm hương vị cho bữa ăn .

Nhiều loại hoa quả được ngâm dấm (dầm với dấm ) hay muối chua theo truyền thống , như là cải bẹ xanh (3) và cải bắp thảo làm kim chi , có sẵn ngoài các chợ châu Á . Chúng tôi mong muốn các bạn mua vài bó rau cải và về làm thử xem . Chúng nó đóng góp khá nhiều trong bàn ăn . (4)

Chúng tôi có ghi ra hai phương thức làm dưa , một loại là dưa củ cải trắng Tây Tạng , loại kia là ớt cayenne dầm (5), ngâm dấm , tươi đỏ đẹp mắt . Cả hai có thể để dành trong chạn , khi cần mang ra làm như một thứ gia vị , dùng thêm vào các món ăn khác . Trong tủ chạn có thêm món ớt cay ngâm dầu ăn và tương ớt Quí Châu .


1. Chutney : theo vdict dịch là tương ớt xoài . Nhưng thật ra Chutney có nghĩa là một loại thức ăn chế biến từ các loại trái cây ngọt và cho thêm gia vị . Ở Bắc Mỹ và châu Âu người ta dùng cối chày giã nhuyễn ra , rồi thêm dầu thực vật , dấm hay chanh ; có nơi lại thêm ớt đỏ , có nơi phải đem nấu chín rồi mang ra dùng . Các loại chutney hay ăn thường gồm có dừa hoặc cà chua đỏ hay xanh , ngò, xoài , me , đào (Nam Phi châu ) , ớt , đậu phọng (người Ấn gọi là shenga chutney trong món ăn marathi ), hành tây .
2. preserve .
3. pickled mustard greens .
4. Bạn tôi có một cô cháu là bác sĩ , lấy chồng Mỹ cũng là một bác sĩ . Ông này rất thích món dưa cải chua . Đa số người Mỹ rất ghê sợ mùi dưa chua này . Cách đây hơn 20 năm , có lần tôi mang một lon dưa cải chua bỏ vào trong tủ lạnh , chẳng may bị đổ ra . Thế là họ oang oang phát thanh ầm trong hãng : " Đồ ăn trong tủ lạnh đã bị hư thối , bị "contamination " , hãy ra tủ lạnh mà vất bỏ đị Tôi đi vào mở tủ lạnh ra xem , mùi dưa thơm thế mà bị coi là hư thúi . Bà vợ trẻ này thương chồng , tìm cách làm muối dưa , nhưng lần nào dưa cũng bị khú . Ông chồng ăn thử , nhăn mặt , chê : " You làm món này hổng giống dưa chua bọn mình ăn ở Việt Nam . " Bà má cô ta , bạn tôi nhân dịp gặp trong tiệc cưới hỏi tôi cách thức làm dưa chua ra sao . Tôi chưa từng làm thử , nhưng nhớ mang máng bà nhà tôi chỉ tôi cách làm : "Chị cứ một lít nước cho 3 muỗng muối , 1 muỗng đường bảo đảm với chị , dưa sẽ vàng thơm mười lần như một . " Mấy tuần sau tôi gặp lại chị , hỏi sao dưa chị đến đâu rồi . Ba? nhăn răng cười : " Y như anh nói , mười lần như một , khú cả mười . "
5. Cayenne : loại ớt đỏ , trái dài khoảng 6 hay 7 phân , mỏng mảnh . Độ cay của ớt khá cao , từ 30 ngàn đến 50 ngàn độ Scoville Unit . Ớt cay en được dùng khá nhiều trong cách nấu các món ăn cay Tứ Xuyên .

Tung Son dịch , ngày 26.3.2009

Friday, March 6, 2009

Pilaf, also called polao, pilau, or pulao (picture of Wikipedia)

Thực phẩm

Thực phẩm

Từ những vùng ốc đảo Tân Cương đến các thảo nguyên Nội Mông , Thanh Hải và Tây Tạng , hay từ những ngọn đồi núi bán nhiệt đới và thung lũng nhiều mưa của tỉnh Vân Nam và Quí Châu đến các rặng núi lởm chởm tỉnh Tân Cương và Tây Tạng , các nền văn hóa ẩm thực cổ truyền nằm ngoài Vạn Lý Trường Thành phản ánh bởi khí hậu địa phương và địa hình . Theo đó , sự khả dụng nguồn nước và nhiên liệu quyết định loại hoa quả nào nên trồng và cách thức người ta nấu nướng ra làm sao .

Trên các đồi núi và thảo nguyên , đất đai trở nên cao và khô ráo hơn , kể cả tỉnh Nội Mông , Tây Tạng , Thanh Hải , và các sống núi của Tân Cương , nơi đây vẫn còn có lối chăn nuôi cổ truyền du mục . Dân du mục sinh sống nhờ đàn gia súc , ăn thịt còn sống hay phơi khô cũng như một số loại sản phẩm bơ sữa . Họ trao đổi len hoặc muối (thu hoạch từ các hồ chứa nước mặn hay tầng đất có muối khoáng ) để lấy trà và thóc lúa . Ở Tân Cương , những sắc dân thiểu số không thuộc Hán tộc (Kirghis, Tajik, Kazakh, Tuvan ) sống đời du mục hay bán du mục trong một khí hậu khắc nghiệt của miền núi Pamir , Tian Shan (Thiên Sơn ) , Altai (A nhĩ thái) .

Ở Tây Tạng , món chính về thịt là bò lông dài , yak (gần như thịt bò ) , và kế đến là dê cừu . Một số loại rau trái hoa quả , lúa mì, lúa gạo cũng có sẵn ở thành phố Lhasa và các thị trấn khác , nhưng ở miền quê , người ta tương đối vẫn ăn kiêng cữ theo phong tục , với lúa mạch , thịt , trà , và sản phẩm bơ sữa (bơ, phô mai, và sữa chua) . Loại lúa chính của người Tây Tạng , luá mạch khó lòng sinh tồn trên cao độ và ít mưa . Đôi khi người ta làm thành bánh luá mạch xôm xốp , nhưng hầu hết đem rang lên mà vẫn còn nguyên hạt , xong giã nhuyễn thành tsampa , một loại bột nhuyễn có thể tiêu hóa ngay . Một món ăn cổ truyền chính của Tây Tạng dành cho người chăn nuôi và khách du hành , cũng như nhiều dân định cư , là trà pha thêm muối và bơ , cho thêm bột tsampa quậy cho đều và ăn ngay .

Trong tỉnh Nội Mông , các món ăn về thịt (đôi khi dê cừu ) thường nấu sủi , ninh nhỏ lửa hay nướng . Lẫu là một món ăn chè chén thực tiễn truyền thống của người Mông Cổ (1) , miếng thịt được nhúng vào nước dùng sủi bọt tăm mà ngày nay được lan truyền khắp Trung quốc , Cao ly (2) và Đông Nam Á .

Món thịt nướng Mông Cổ cũng trở thành phổ thông ở Tây phương . Các sản phẩm bơ sữa có khá nhiều loại : sữa chua , sữa khô (sữa bột) , phô mai khô hay tươi , bơ và còn nhiều nữa . Trong thời gian gần đây , bột mì có sẵn , người ta dùng mì sợi và bánh mì dẹp , cũng như món kê . Luá gạo được chuyên chở từ các miền khác của Trung quốc và trở thành một món ăn chủ yếu trong những thị trấn trù phú của tỉnh Nội Mông . Trà đôi khi pha thêm sữa để uống .

Các ốc đảo trong sa mạc Takla Makan , Tân Cương bao bọc bởi các cánh đồng màu mỡ , xung quanh là các hàng cây xanh , cũng như bởi các làng mạc nhỏ và các thị tứ lớn . Các hàng cây trợ giúp tạo ra một vùng khí hậu nhỏ (microclimate) tươi mát , đệm giữa cái nóng và luồng khí khô khan mãnh liệt . Bởi vì nguồn nước cung cấp cho ốc đảo phát xuất từ các dòng nước ngầm len lỏi từ các rặng núi xa xôi , vùng khí hậu nho nhỏ này khá ẩm so với không khí đại mạc , và khi đất cát đầy đủ nước , sẽ sản xuất ra hoa màu , trái cây và thóc lúa , và chính là lúa mì . Bầy thú dê trừu gặm cỏ trên các bìa ốc đảo hay tuốt ngoài sa mạc . Các món ăn chính đều từ lúa mì - thức ăn căn bản - nướng trong lò - bánh mì dẹp nướng và mì sợi đủ loại - và thịt , quay nướng trên ngọn lửa hồng hoặc là nấu liu riu chung với các loại rau rợ trồng tại ốc đảo như cà chua , ớt và hành . Cơm gạo được dùng chỉ khi nào có dịp lễ lạc với hình thức nấu chung với thịt , PULAO, và thường đi kèm rau xà lách hay đồ chua .

Khí hậu bán nhiệt đới của núi đồi tỉnh Vân Nam , Quí Châu và tây Quảng Tây , với những cơn mưa dằng dặc, và nhiệt độ ôn hòa , sản xuất được nhiều loại hoa quả rau rợ tha hồ cho các đầu bếp địa phương chế biến . Mặc dù có đủ bốn mùa , nhưng chúng không thật rõ rệt và khắc nghiệt như các vùng ngoài Vạn Lý Trường Thành . Heo lợn béo mập và lúa gạo cũng vậy và cả hai đều là món chính , kèm theo là rau xanh đủ loại . Nhiều món phải chiên xào bằng chảo thật nóng (stir fried) và có món truyền thống chỉ hầm món thịt kho hay nấu món canh xúp bằng một cái nồi cho cả nhà . Chỉ vì khu vực miền nam được nhiều dân tộc đa dạng định cư , phần đông họ lại ảnh hưởng với nhau theo vài mặt nào đó , nên không thể nói nhiều về thực phẩm trong những từ ngữ chung chung ; niềm thích thú nằm trong sự đặc trưng riêng rẻ . Điểm nổi bật đối với chúng tôi kể cả món TART - hương vị cay nồng của cách nấu của người Dai (Thái) , bà con với người Lào và người bắc Thái ; món xúp của người Đồng đầy tình mái ấm gia đình ; cơm nếp ; ớt Tứ Xuyên giã nhuyễn như tương ; món cá mới đầy sáng tạo ; tô xà lách bày biện lạ mắt và đĩa rau xào nấu sơ qua .

Chú thích

1. Hot pot is a practical and convivial Mongol tradition of simmering meat in broth ....
2. Korea : chúng ta mượn chữ dịch từ người Trung quốc , họ không có âm R , nên chữ R đều biến thành L . Korea là Cao Lệ, Cao Ly ; Paris thành Ba Lê . Frying rice (Cơm chiên, cơm rán ) thành Flying lice (Chí bay , rận bay ) .

6.3.2009

Sunday, February 15, 2009

Cách-lỗ phái (zh. 格魯派, bo. gelugpa དགེ་ལུགས་པ་), nguyên nghĩa "tông của những hiền nhân", cũng được gọi là Hoàng mạo phái (黃帽派) vì các vị tăng phái này mang mũ màu vàng, là một trong bốn tông tại Tây Tạng do Tông-khách-ba thành lập. Tông này đặc biệt nhấn mạnh đến Luật tạng (sa., pi. vinaya) và nghiên cứu kinh điển. Căn bản của cách tu tập trong tông này là những bộ luận Bồ-đề đạo thứ đệ (bo. lam rim ལམ་རིམ་) và những tác phẩm nói về học thuyết của các trường phái. Kể từ thế kỉ thứ 17 tông này có trách nhiệm chính trị tại Tây Tạng, với sự có mặt của Đạt-lại Lạt-ma, được xem là người lĩnh đạo chính trị và tinh thần của nước này.

Giáo pháp của phái Cách-lỗ dựa trên các bộ luận của Tông-khách-ba và hai vị đại đệ tử là Giá-tào-kiệt (zh. 賈曹杰, bo. gyaltshab, 1364-1432) và Khắc-chủ-kiệt (zh. 克主杰, bo. kherub, 1385-1438). Sau một cuộc gặp Văn-thù-sư-lợi trong lúc nhập định, Sư biên soạn một bộ sách về giáo lí Trung quán (sa. madhyamaka) có ảnh hưởng trực tiếp đến tông Cách-lỗ. Trong những tập sách giảng giải về các phương pháp thiền quán, Tông-khách-ba chỉ rất rõ phương tiện để hành giả có thể đạt được tri kiến Trung quán đó. Những tập sách này thường bắt đầu bằng những lời về sự không toàn diện của Luân hồi và cách phát triển Bồ-đề tâm. Sau đó là phần khai thị để chứng được tính Không.

Phép tu thật sự nằm ở chỗ làm sao đạt được Định. Sư hướng dẫn rất rõ trong các tác phẩm của mình, hành giả phải phối hợp cân đối giữa Chỉ (sa. śamatha) và Quán (sa. vipaśyanā) thế nào để đạt được mục đích này. Song song với cách tu luyện này, giáo pháp Tantra cũng được xem là phương pháp đặc biệt để đạt sự phối hợp cân đối đó.


(Giản thể: 甘肃; Phồn thể: 甘肅; Bính âm: Gānsù; Wade-Giles: Kan-su, Kansu, hoặc Kan-suh) là một tỉnh ở phía tây bắc của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Cam Túc nằm giữa tỉnh Thanh Hải, Nội MôngCao nguyên hoàng thổ, giáp với Mông Cổ về phía bắc. Sông Hoàng Hà chảy qua phía nam tỉnh này. Dân số Cam Túc là 25 triệu người (1997) và tập trung nhiều người Hồi. Tỉnh lỵ là Lan Châu nằm ở đông nam tỉnh này.

Cam Túc có tên gọi tắt là Cam hay Lũng (陇/隴), cũng còn gọi theo tên cũ là Lũng Tây hay Lũng Hữu vì có núi Lũng ở phía đông Cam Túc. (Theo Wikipedia)

People

Dân tộc

Hầu hết (vào khoảng 92 phần trăm ) một tỉ rưỡi người sinh sống trong Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc đều là người gốc Hán . Người Hán và phần lớn sinh sống trong vùng trung tâm Trung Quốc , dọc theo duyên hải miền đông với mật độ dân cư cao , một khu vực tương đương với miền đông duyên hải Hoa Kỳ và tới tận sông Mississipi , khoảng chừng một phần ba lãnh thổ Trung Quốc .

Nền văn hóa Trung Hoa khởi đầu tiến hóa trong các miền đất phì nhiêu nằm giữa hai con sông lớn , Hoàng Hà và Dương Tử Giang , hơn 3000 năm trước đây . Đến khi người Trung Hoa phát triển phương pháp phức tạp về cách chế ngự sông ngòi ngập lụt và dẫn thủy nhập điền , thì nền nông nghiệp được đà tiến triển nhanh , như cố đô Trường An biến thành đô thị lớn (Giờ đây là thành phố Tây An , Xían ) . Vài phát minh mới như cách chế tạo giấy , hệ thống chữ viết phức tạp và hệ thống sĩ phu trí thức (1), cũng như về thuốc súng , đồ sứ , và tơ lụa . Thời gian trôi qua , dân số Hán trong vùng trung tâm gia tăng và nảy nở , người Hán dần dần phát triển về phương nam sông Dương Tử và tiến qua phía bắc Hoàng Hà , cũng như vào sâu hướng tây vào miền bây giờ gọi là tỉnh Tứ Xuyên (Sichuan) .

Bên ngoài vùng đông dân Hán tương đối thuần nhất (homogeneous) tại trung tâm Trung Quốc , là vùng ngoại biên Vạn Lý Trường Thành . Nơi đây sinh sống của nhiều dân tộc như người Tây Tạng , Mông Cổ , Hồi Hột , Miêu (Miao) , Hồi (Hui) , Đồng , Di (Yi) , Thái (Dai) và các sắc dân khác .

Các nhóm dân này đã có nhiều quan hệ phức tạp đến dân Hán qua nhiều thế kỷ . Có dân tộc đã chiếm đóng Trung Hoa (Mông Cổ, Tây Tang (cái này không đúng a ! (1A) , Mãn Châu . Có nhóm theo sử học lại khá độc lập với Trung Hoa (Di, Miêu, Hà Nhì (Hani)(2)) , có nhóm bị đồng hóa (assimilated) khá nhiều (người Mãn , người Choang (3) , và các dân tộc khác (người Tạng , Hồi Hột (Uighur) vẫn giữ được tính riêng biệt đậm nét . (4)

Ngày nay con cháu dòng dõi các nền văn hóa đó đều là công dân nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa . Trên quốc kỳ có năm ngôi sao tượng trưng cho năm dân tộc chính : Hán , Tạng , Mông , Mãn và Hồi . (5) Dân Hán chiếm đa số , vẫn là số đông , còn các dân tộc khác được có danh hiệu (label) là "dân tộc thiểu số" theo như nhà cầm quyền Bắc Kinh . Có khoảng 55 sắc dân chính thức được công nhận , chiếm vào khoảng 8 phần trăm dân số , 125 triệu người .

Đối với người phương Tây , dân tộc phi Hán thông thường có lẽ được hiểu là dân Tạng . Trong thế kỷ thứ 7 , bắt đầu từ trung tâm Tây Tạng , không xa thủ phủ Lhasa , dân Tạng thống nhất dưới triều đại vua Songtsen Gampo , các binh đoàn chiếm hữu miền đất bây giờ gọi là Tân Cương và một phần đất đai Ladakh (Ấn Độ ) và bành trướng về phương bắc và đông trong suốt thế kỷ thứ 8 , và có lần tiến chiếm cố đô của Trung Hoa thời bấy giờ là Trường An . Tây Tạng trở thành nước theo Phật giáo và triển khai chữ viết . Đế quốc Tây Tạng ngự trị khoảng hai thế kỷ . Quốc gia này tan biến thành những nước nhỏ . Nước này bị quân Mông đánh bại dưới thời Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan) năm 1207 . Những năm về sau một Đại Hãn theo Phật giáo Tây Tạng , và Hốt Tất Liệt (1215-1294) (6) trở thành người đỡ đầu cho Phật giáo , tạo ra một mối liên kết giữa hai nền văn hóa mà đến nay vẫn còn tồn tại . Sau khi Mông Cổ mất dần thế lực ở thế kỷ 14 , Tây Tạng lấy lại độc lập nhưng vẫn còn là những nước bị xâu xé từng mảnh , lần này dưới quyền cai trị của giới tăng lữ (monastery) , trung tâm của quyền lực kinh tế và học thuyết .(7) Vào thế kỷ 17 Tây Tạng rơi vào một thế lực , một giáo phái tăng lữ cải cách (Gelug hay là Hoàng Mạo Phái (Yellow Hat Sect ) đứng đầu là Đạt Lai Đạt Ma . Cho đến thế kỷ 20 , Tây Tạng tương đối vẫn còn là nước tự trị , với nền kinh tế theo kiểu phong kiến và nền văn hóa tập trung xung quanh các tu viện to lớn , được cai quản bởi trung tâm (Lhasa) với Phật Sống thừa kế Đạt Lai Đạt Ma hoặc là với quan nhiếp chính (regent) .

Sau khi quân đội giải phóng nhân dân của Mao Trạch Đông kiểm soát Trung Hoa năm 1949 , chính quyền Trung Hoa bắt tay vào việc chiếm đóng những miền ngoài Vạn Lý Trường Thành , bao gồm Tây Tạng , và những vùng sa mạc nằm về hướng tây . Những năm sau , bộ đội Trung Hoa xâm chiếm miền đông Tây Tạng , Kham và Amdo và đồng hóa sáp nhập vào tỉnh Tứ Xuyên , Thanh Hải và Cam Túc (Gansu) . Năm 1959 , Đức Đạt Lai Đạt Ma 14 trốn thoát từ Lhasa vào tận Ấn Độ , và người Trung Hoa hoàn toàn kiểm soát miền trung tâm và miền tây Tây Tạng .

Nguyên thủy , các bộ tộc du mục rời rạc Mông Cổ đã kết hợp , đóng một vai trò chủ chốt trong lịch sử Trung Quốc và phần còn lại của châu Á , Đầu thế kỷ 13 Thành Cát Tư Hãn đã dẫn dắt các bộ tộc nhỏ , chiến thắng và liên kết được bộ tôc khác Mông Cổ . Quân đoàn năng động cao Mông Cổ , tất cả đều là kỵ binh , tiến đánh các vùng đất chung quanh . Thành Cát Tư Hãn chiếm đóng các vùng bây giờ gọi là Nội Mông , Cam Túc , Tân Cương và Tây Tạng . Con trai và cháu nội ông ta chiến thắng phần lớn nước Nga , những vùng quanh biển Caspian , Iran , Afghanistan , và Iraq , sau đó Thổ Nhĩ Kỳ và Syria . Họ cũng xâm chiếm miền trung tâm Trung Hoa , cũng như lãnh thổ Vân Nam , vào tận Miến Điện .

Hốt Tất Liệt , cháu nội Thành Cát Tư Hãn , thành lập một triều đại mới , nhà Nguyên (Yuan), cai trị nước Trung Hoa khoảng một thế kỷ , từ 1280 đến 1368 . Trong suốt thời gian cai trị nói trên , người Mông cải đạo thành một loại Giáo phái Phật giáo Tây Tạng . Nhà Minh đánh bại lật đổ nhà Nguyên (1368-1644) . Nền văn hóa Hán tộc tái xác nhận quyền thống trị , người Mông Cổ quay trở về đất tổ của họ . Họ tiếp tục thành lập các đồng minh quân sự và chính trị qua từng thời kỳ nhưng không bao giờ lấy lại quyền lực như xưa . Qua nhiều thế kỷ , người Hán tiến dần vào đất Nội Mông , xâm lấn (encroach on) vào các miền đồng cỏ , cày xới đất đai và xây cất nhà cửa .

Chính vì sự gậm nhấm , thâm nhập nhỏ giọt của dân định cư từ các phần khác Trung Hoa , mật độ dân cư của Nội Mông bây giờ ít hơn 20 phần trăm dòng dõi người Mông . Nhiều người Mông vùng này sinh sống trong các thành phố , trị trấn , nhưng vẫn còn có người sinh sống trên các cánh đồng cỏ , ở tạm trong các lều " Ger" (lều có nóc dạng hình cong (dome )) , bầy ngựa , trâu bò hay dê cừu nhai cỏ gần đấy . Miền bắc Tân Cương , và rải rác Thanh Hải và Vân Nam , có từng nhóm dân Mông . Nhóm này ở lại sau khi đoàn quân cha ông từng chiếm đóng các vùng này ngày xưa vào thế kỷ 13 .

Lịch sử của các sa mạc miền tây và các rặng núi , được ám chỉ đến một miền gọi là Thổ-Trung (Chinese Turkestan hay là miền Trung Tâm Trung Quốc) , và hiên nay thuộc tỉnh Tân Cương , rất phức tạp , một câu chuyện về ngoại xâm và nội chiến . Dân số chính trong các ốc đảo quanh Sa mạc Takla Makan là người Hồi Hột (Uighur) .

Dân Hồi Hột là dân nói tiếng thuộc gốc Thổ (Turkic , như dân tộc Uzbeks, Kirghiz và Kazakhs) , nguồn gốc từ các dân du mục trên các thảo nguyên bây giờ thuộc nước Mông Cổ . Họ di cư về miền tây , nhưng không như sắc dân nói tiếng gốc Thổ , họ ở lại trở thành dân định canh trên các ốc đảo và phát triển thành một nền văn hóa có chữ viết khá tinh vi . Vào thế kỷ 9 , người Hồi Hột kiểm soát toàn vùng sa mạc Takla Makan . Sau đó bị dân Mông Cổ đánh bại và họ lui sâu vào trong .

Giống như Samarkand và Venice (8) , dù nằm dưới độ vĩ một chút , việc định cư tại các ốc đảo này trở nên giàu có nhờ sự thương mại qua lại của Con Đường Tơ Lụa , từng lữ đoàn caravan nối kết giữa hai miền Trung Hoa và Ba Tư (Persia) , Ấn Độ , Địa Trung Hải và Âu châu . Ốc đảo là quê hương của nhiều sắc dân - Ả rập , Ba Tư và nhiều dân tộc khác kể cả một số dân châu Âu - được lôi cuốn bởi thương vụ này . Việc giao thương trên tuyến đường này từ thế kỷ 12 đến 15 , sau đó đã biến chuyển qua đường biển (ít bị cướp và vấn đề chính trị ) . Các miền ốc đảo trở nên ảm đạm đen tối , biến thành các tiền đồn hẻo lánh (isolated outposts) đấu tranh quyền lực bởi các sứ quân và ít khi được sự kiểm soát bởi chính quyền trung ương .

Dân Hồi Hột vẫn là dân nông nghiệp và thương vụ . Trong những năm gần đây , họ nổi danh là các doanh nhân trong thành phố thuộc miền trung Trung Quốc , buôn bán đủ thứ từ món kebab và bánh mì dẹp (flatbread) cho đến tơ lụa và các đồ quí giá từ Tân Cương .

Một trong những hậu quả (hệ quả ) của giao thương Con Đường Tơ Lụa là để lại các vùng định cư ở ốc đảo , và cuối cùng tại miền Trung Tâm Trung Quốc , về một tôn giáo mới du hành từ phương tây - Phật giáo , Manicheaism , và sau rốt là đạo Hồi - được mang theo do các lái buôn , du khách , và các nhà tu hành . Khoảng thế kỷ 12 , hầu hết dân số nơi đây theo Hồi giáo .

Tại Trung Quốc , một dân tộc được định danh theo đạo giáo là dân Hồi (Hui) , là những người theo đạo Hồi (Muslim) . Người Hồi (ngày nay tổng số vào khoảng 10 triệu ) sống trong nhiều vùng ở Trung Quốc , nhưng vùng chủ yếu là những dãy đất nằm trên Hoàng Hà thuộc tây bắc Trung Quốc , trong các tỉnh Thanh Hải , Cam Túc và Ninh Hạ (Ningxia) . Cũng có vài cộng đồng lớn người Hồi tại vài thành phố miền Trung Tâm , kể cả Tây An và Quảng Châu , nơi đây họ xây cất đền thờ mosque và thường có các chợ búa riêng . Chữ viết tắt Hồi là do đặt tên cho những người Hán cải đạo thành đạo Hồi nhưng thật ra có thể nguồn gốc xưa kia của họ bắt nguồn từ dòng dõi của các thương gia Ba Tư hay Ả Rập cũng như là người Hán theo Hồi giáo .

Trên các rặng núi dọc theo biên thùy Trung Quốc ngày nay có nhiều sắc dân đủ chủng tộc và văn hóa .Vài dân tộc hình thành một nước và có hơi hướm như tính cách quốc gia . Vài tộc phát nguyên từ miền đất thấp phì nhiêu và qua thời gian bị đẩy tận ra gần vùng biên ải xa xôi (marginal areas) ; vài dân khác hình như chỉ biết sống miền thượng du . Những vùng đa dạng , nói theo nghĩa dân tộc , là các đồi núi miền nam và tây nam các tỉnh Quảng Tây , Quí Châu và Vân Nam . Nơi đây sinh sống đa số là người Mèo (H'mong) , ở Trung Quốc gọi là Miêu (Miao) , Đồng , Dai (Thái) , Di , và Hà Nhì (Hani) và nhiều dân tộc thiểu số khác .

Trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh (Long March) , khi lực lượng của Mao Trạch Đông kiểm soát được Trung Hoa , các quân đoàn tiến sâu vào Quí Châu và Quảng Tây . Đối với dân trong làng , đây là lần đầu họ tiếp xúc với dân Hán , và bắt đầu quá trình trong việc hợp tác thành một nước Trung Hoa vĩ đại .(9) Cho đến ngày nay , nhiều sắc dân trong các đồi núi miền nam và tây nam còn khá xa lạ với dòng cuộc sống chính Trung Quốc , hoa quả lúa gạo cấy trồng , ngô bắp và hạt kê ; dùng sức thú vật và sức người ; và vẫn nói tiêng riêng của họ , mặc dầu bây giờ con cháu của họ ra ngoài tỉnh thành trong miền Trung Trung Quốc làm việc hay muốn học cao hơn .(10)

Trong các rặng núi miền tây và bắc tỉnh Tân Cương sinh sống bởi một số ít sắc dân bán du mục : Kirghis ,Tajik, Kazakh, Tuvan và một số dân Mông Cổ . Một số di cư xuống các thành phố như Kashgar và Urumqi , nhưng phần lớn sinh sống trong các ngôi làng nhỏ vào muà đông , và mùa hè - họ di chuyển với đàn gia súc dê , lạc đà,bò lông dài, trừu đến các vùng đất cao có cánh đồng cỏ - trong các lều , nhà kiểu "yurt" . Một số lớn dân tộc thiểu số sống rải rác tại biên ải lân cận các nước láng giềng (Kyrgyzstan,Nga, Tajikistan,Kazakhstan, Mông Cổ và Afghanistan ) .


1. an elite educational system .
2. Qua lịch sử, Tây Tạng đã từng là một quốc gia hùng mạnh. Đời nhà Đường, vua Tây Tạng với quốc hiệu Thổ Phồn là Khí Tông Lộng Tán hay còn gọi là Tùng Tán Can Bố (Songtsần Gampo) đã đem binh tới tận Trường An, buộc Đường Thái Tông Lý Thế Dân phải gả Văn Thành công chúa cho ông tạ Cuộc hôn nhân giữa ông vua được lịch sử diễn tả rất đẹp trai, tài cán phi thường với cô công chuá Đường Trào và Công chúa nước Nepal là Ba Lợi Khố Cơ (Bhrikuti) đều là 2 người sùng đạo Phật đã biến ông vua hiếu chiến thành một người sùng đạo, và được coi là vị vua đầu tiên mở mang Phật Giáo ở Tây Tạng. Cuộc hôn nhân giữa vua Khí Tông Lộng Tán và hai công chúa nhà Đường và Nepal đã để lại những di tích lịch sử nổi tiếng cho tới ngày nay như điện Bố Đạt Lạp (Potala), Đại Chiêu Tự (Jokhang)...

Đến đời Đường Trung Tông, vua Đường còn gả công chuá Kim Thành cho vua Khí Lệ Súc Tán. Trong suốt đời Tống, nước Tàu phải đối địch với nước Liêu, Tây Hạ, nước Kim không có liên hệ gì với Tây Tạng. Đến đời nhà Nguyên, theo nạn chung, Tây Tạng bị Mông Cổ xâm chiếm, nhưng Tây Tạng vẫn là một bộ tự trị, Thành Cát Tư Hãn không đặt quan cai trị, mà còn nhờ những vị cao tăng Tây Tạng giúp Mông Cổ chế ra chữ viết, nhà sư Phát Tư Ba được Hốt Tất Liệt phong làm quốc sư, Đại Bảo Pháp Sư Mông Cổ kiêm Pháp Vương và Tạng Vương Tây Tạng. Vào thời Minh, Tây Tạng vẫn tiếp tục là nước độc lập.

Vào thời nhà Thanh, Tây Tạng gặp loạn Tang Kiết, bị quân Mông Cổ của Cát Nhĩ Đan xâm chiếm, Khang Hy cử quân can thiệp nhưng vẫn không đặt quan cai trị. Trong thời Khang Hy và Ung Chánh, nhà Thanh đã sáp nhập vùng đất Khương Tạng và An Đa hay Đường Tạng vào lãnh thổ nhà Thanh, nhưng Tây Tạng vẫn do Đạt Lai và Ban Thiền Lạt Ma cai quản. Mãi tới đời Càn Long sau khi sai Phúc Khang An và Tôn Sĩ Nghị đưa quân đánh đuổi cuộc xâm lăng của Khuyếch Nhĩ Khách (Gurkha), Càn Long mới đặt vị Trú Tạng Đại Thần đứng ngang hàng với hai vị Đạt Lai và Ban Thiền trông coi chính sách Tây Tạng. Nhà Thanh suy vi, ngày 14 tháng 2 năm 1913, Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 tuyên bố Tây Tạng độc lập.

Qua lịch sử cho thấy Tây Tạng chưa bao giờ là một phần lãnh thổ Trung Hoạ Khi bị Trung Cộng đe doạ chính quyền Tây Tạng cầu cứu Liên Hiệp Quốc trong năm 1949, Anh và Ấn Độ chủ trương không can thiệp, nhưng đa số các nước trên thế giới đều nói rằng đây cuộc xâm lược trắng trợn. Qua các cuộc tranh luận ở Liên Hiệp Quốc nhiều nước nói rằng qua lịch sử mấy ngàn năm, Tây Tạng là nước độc lập, tự do nhiều hơn đa số các nước trong Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. (Theo nét)

2. Hani , người ta chưa biết rõ nguồn gốc của người Hà Nhì, tuy tổ tiên họ, tộc người Khương, đã di cư từ vùng cao nguyên Thanh Tạng xuống phía nam từ trước thế kỷ thứ bạ Theo lời truyền miệng của người Hà Nhì thì họ có nguồn gốc từ người Di (Yi), tách khỏi nhau thành bộ tộc riêng biệt 50 đời về trước. Ngôn ngữ Hà Nhì là thuộc nhánh ngôn ngữ Di, họ ngôn ngữ Tạng - Miến. Theo lời truyền miệng thì người Hà Nhì đã từng có một thứ chữ viết, nhưng thứ chữ này đã bị thất lạc khi di cư từ Tứ Xuyên xuống phía nam. Giờ đây họ sử dụng chữ cái Latinh làm chữ viết. (Theo Wikipedia)
3. Choang : Người Tráng (tiếng Tráng: Bouчcueŋь/Bouxcuengh; Hán tự: 壯族; bính âm: Zhuàngzú; Hán-Việt: "Tráng tộc") là một trong những dân tộc đông dân nhất trong các dân tộc thiểu số Trung Quốc. Sách báo Việt Nam hiện nay thường gọi là người Choang. (theo Wikipedia)
4. Chưa bị người Tàu đồng hóa , không biết là bao lâu ?
5. Tây Hạ (西夏 pinyin: Xīxià), là vương triều từ 1032 đến 1227 của bộ tộc người nói tiếng Tây Tạng là Đảng Hạng được sáng lập vào thế kỷ 11 và phát triển cho đến đầu thế kỷ 13 cho đến khi bị xâm lấn bởi quân đội Mông Cổ của nhà Nguyên. Quốc gia này nằm trên địa bàn các tỉnh phía tây bắc Trung Quốc hiện nay là Cam Túc, Thiểm Tây và khu tự trị Ninh Hạ (còn gọi là Hồi Ninh Hạ do ở đây chủ yếu là dân tộc Hồi sinh sống). Chiếm giữ vị trí dọc theo tuyến đường thương mại giữa khu vực Trung Á và châu Âu, vương quốc của người Đảng Hạng về hình thức là quốc gia phải triều cống cho nhà Tống và sau đó là nhà Kim. Trong thực tế đây là một quốc gia độc lập, và mối quan hệ tương hỗ giữa Tây Hạ, Tống và Kim là một điểm thú vị trong lịch sử quan hệ đối ngoại bởi vì đây là hình mẫu của quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia trên thực tế là ngang nhau về sức mạnh nhưng trong khuôn khổ ngoại giao thì một quốc gia về hình thức là mạnh hơn. Tây Hạ có chữ viết riêng nhưng đã bị biến mất sau khi vương quốc này bị tiêu diệt bởi quân Mông Cổ.
Thủ đô của Tây Hạ là Hưng Khánh (興慶), nay là thành phố Ngân Xuyên (giản thể: 银川, phồn thể: 銀川), thủ phủ của khu tự trị Ninh Hạ. (Theo Wikipedia)
6. Hốt Tất Liệt (Latinh hoá tiếng Mông Cổ là Kublai Khan hoặc Khubilai Khan; 1215–1294) là Hãn thứ năm của Mông Cổ. Ông là con của Đà Lôi, cháu nội của Thành Cát Tư Hãn (Chingis Khan). Năm 1259, Hốt Tất Liệt đã trở thành Đại Hãn của Mông Cổ. Dưới sự lãnh đạo của ông, đế quốc Mông Cổ đã đạt đỉnh điểm của sự hưng thi.nh. Ông đã dời đô từ Hoa Lâm về Đại Đô tức Bắc Kinh ngày naỵ Vào năm 1271 ông đã lập triều đại của người Mông Cổ mang tên Nguyên, xưng là Nguyên Thế Tổ. Năm 1279 quân đội của ông tiêu diệt nhà Nam Tống (1127-1279), thống nhất Trung Quốc. Tất cả các vương quốc nằm cận kề với đế quốc Mông Cổ đều trở thành các nước chư hầu lệ thuộc. Mộng của Hốt Tất Liệt nhắm thôn tính cả Nhật Bản, Đại Việt, Bagan và Java không thành. Mặc dù rằng Hốt Tất Liệt theo đạo Phật nhưng ông lại cũng để ý đến sự phát triển của đạo Kitô trên thế giới và đã mời các sứ giả truyền đạo này vào Trung Quốc. Ông cũng chú trọng đến việc phát triển các nghề thủ công, khoa học và nghệ thuật. Một trong những người ngoại quốc đã đến thăm triều đình này là Marco Polo . (Theo Wikipedia)
6B . Cam Túc :(Giản thể: 甘肃; Phồn thể: 甘肅; Bính âm: Gānsù; Wade-Giles: Kan-su, Kansu, hoặc Kan-suh) là một tỉnh ở phía tây bắc của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoạ Cam Túc nằm giữa tỉnh Thanh Hải, Nội Mông và Cao nguyên hoàng thổ, giáp với Mông Cổ về phía bắc. Sông Hoàng Hà chảy qua phía nam tỉnh nàỵ Dân số Cam Túc là 25 triệu người (1997) và tập trung nhiều người Hồị Tỉnh lỵ là Lan Châu nằm ở đông nam tỉnh nàỵ Cam Túc có tên gọi tắt là Cam hay Lũng (陇/隴), cũng còn gọi theo tên cũ là Lũng Tây hay Lũng Hữu vì có núi Lũng ở phía đông Cam Túc. (Theo Wikipedia)
7. centers of Buđhist learning and economics power .
8. Samarkand là một trong thành phổ cổ nhất thế giới , thịnh vượng nhờ nằm giữa con Đường Tơ Luạ từ Trung Hoa đến Địa Trung Hải .
8 . Hỏa giáo : Hỏa giáo (Zoroastrianism) còn được gọi là Minh giáo hay Bái hỏa giáo là một tôn giáo cổ của Ba Tư được sáng lập bởi nhà tiên tri Zarathustra, với bộ kinh chính thức là Cổ kinh Ba Tư. Đạo phát triển mạnh ỏ Iran khoảng thế kỉ 10 - 7 trước công nguyên, sau đó, phát triển sang nhiều nước khác ở Trung Đông, Ấn Độ và Trung Hoạ Hỏa giáo - hay Minh Giáo là tôn giáo được nhắc đến nhiều và là một bối cảnh trong tác phẩm của Kim Dung: Ỷ Thiên Đồ Long Ký. (Theo Wikipedia)
9 . it was the first contact with Han Chinese people, and it was the beginning of the process of incorporating them into the state of China .( Bộ đội Trung Quốc vào tiếp thu các đồng chí láng giềng , không chịu vào cũng phải vào , lý của kẻ cầm súng .)
10. Giá như quân Tàu do Đặng Tiểu Bình năm 1979) dạy cho dân Việt bài học , nếu thắng chiếm luôn , và dân Việt ngày nay cũng được bài viết này nhắc nhở như một dân tộc thiểu số , nhứt định không chịu nói tiếng Bắc Kinh .

Tung Son dịch 22.2.09

Saturday, February 14, 2009

Tian Shan (Source from Flicker.com)


Yak (From Flicker.com)

Gobi desert (China Map) (From Google)

Đất đai

Đất đai

Theo mặt địa lý , Trung quốc giống nước Hoa Kỳ một cách lạ lùng , hai quốc gia lớn cùng với sự thay đổi cách biệt về phong cảnh địa hình . Nếu như bạn đem chúng nó sàng qua quanh trái đất , chúng vừa vặn khít khao nhau . Hai nước này như là anh em sinh đôi , rất giống nhau về diện tích và vĩ tuyến , với bờ biển miền đông với mật độ dân cư cao và miền tây tương đối khô khan . Miền bắc Trung quốc cũng tương tự như Mỹ , mùa đông giá lạnh và mùa hè nóng bức ; miền nam bán nhiệt đới , với mùa hè nóng và ẩm thấp .

Tuy nhiên về mặt địa lý lại có một sự dị biệt giữa hai nước : Trung quốc có một bờ biển miền Đông , và dân cư phát triển với sự thịnh vượng khác hẵn với miền tây nước này . Nó chỉ giống như Hoa Kỳ nếu như chỉ kéo dài tới bang Nevada và Arizona , thay vì bang California và cả miền tây duyên hải đầy thịnh vượng .

Mật độ dân cư , sự giàu có , nền nông nghiệp mở mang đều tập trung ở miền đông Trung quốc , một miền mở rộng từ bờ biển vào tận lục địa khoảng 800 dặm . Đây là trái tim của Trung quốc , nơi mà nền văn hóa Trung quốc được nảy sinh ra , phồn thịnh lên , cũng là nơi Hán tộc sinh sôi nảy nở bành trướng . (Trong sách này , chúng tôi gọi là miền trung tâm Trung quốc , central China . )

Nằm vòng ngoài miền Trung tâm Trung quốc là những miền chúng tôi nghĩ như là "Bên ngoài Vạn Lý Trường Thành . " Nơi đây là quê hương sinh sống của các dân tộc không phải là dân Hán với nhiều nền văn hóa dị biệt , kết hợp không bởi tính chất nhỏ hẹp mà về những môi trường vật lý đặc trưng của chúng . (1)

Bắt đầu từ biên thùy phía nam là các tỉnh Quảng Tây , Quí Châu và Vân Nam , nơi có địa thế núi non , với thực vật vùng cận nhiệt đới , thung lũng với con sông sâu hun hút ngút ngàn , và khí hậu mùa mưa lũ (monsoon climate) đưa tới những cơn mưa lũ vào những tháng hè . Những cơn mưa dày dặc và khí hậu ôn hòa khiến gạo luôn được trúng mùa ở khắp miền , và kể cả luôn các loại trái cây , cũng như rau rợ tươi tốt quanh năm . Khá nhiều dân tộc sống quanh các thung lũng này , cách biệt với nhau cho đến lúc gần đây .

Ở miền tây bắc Vân Nam và tây tỉnh Tứ Xuyên (Sichuan) , vùng lịch sử Tây Tạng , địa hình có nhiều núi non trùng điệp và cao độ trở nên chênh lệch , và cuối cùng nhập thành vùng cao nguyên Tây Tạng . Các con sông chính , bao gồm Nộ Giang (Salween) , Dương Tử Giang (Yangtze) , và Cửu Long Giang xuôi về nam xuyên qua các rặng núi cao , cắt thành các thung lũng sâu thẳm . Có vùng đầy cây rừng , với nhiều cơn mưa , trong khi những chỗ khác mưa trở nên ít ỏi , vì thế khó trồng trọt trừ phi gần đó có nguồn suối hay sông ngòi cung cấp nước . Người dân sinh sống bằng cách chăn nuôi thú vật và cấy trồng những hoa màu khỏe mạnh , dày dạn (2) như lúa mạch và khoai tây .

Tây Tạng bề ngang vào khoảng 1000 dặm chạy từ đông sang tây . Trung tâm Tây Tạng , có nhiều vùng núi cao , xen kẽ với vài thung lũng phì nhiêu . Nổi bật nhất là thung lũng mênh mông của sông Brahmaputra (Tây Tạng gọi là Yarlung Tsangpo ) (3) . Con sông này băng qua Tây Tạng chảy về hướng đông , theo các vực núi phía bắc Hi mã lạp sơn , quay về nam , xuyên qua các rặng núi , và tiến vào bang Assam (4) ở Ấn độ . Ở Tây Tạng , sự định cư và nông trại đôi khi nằm dưới các miền thung lũng , có cao độ trên 11000 bộ (3352 mét) . Dân làng theo truyền thống xây cất nhà cửa dưới chân đồi núi , có thể vì lý do bảo vệ phòng thủ và để tránh né các miền đất đang trồng trọt hoa màu . Mùa đông rất lạnh và khô ; mùa hè tương đối ấm áp , với thỉnh thoảng những cơn mưa lũ (monsoon) từ hướng nam tràn vào Hi mã lạp sơn . Sâu về hướng tây , cao nguyên Tây Tạng dần lên cao khoảng chừng 15000 bộ (4572 mét) . Dân cư thưa thớt , gồm vài sắc dân du mục sinh sống lang thang trên đồng cỏ với bầy dê , bò yak . (5)

Cao nguyên Tây Tạng phía bắc tiếp ranh với các rặng núi Côn Luân (Kunlun) , ngoài ra có những lưu vực khổng lồ Tarim và Sa mạc Takla Makan (6), một trong sa mạc lớn nhất thế giới , với những ốc đảo màu mỡ trồng trọt được đôi khi xuất hiện ở các rìa miền nam hay bắc . (Những con đường nối liền các ốc đảo này tới miền Trung tâm Trung quốc hay đến các nước nằm hướng Tây bây giờ gọi chung là Silk Road , Silk Route : Con Đường Tơ Lụa . ) Sa mạc phần lớn là cát , không dấu vết , vô tích sự . Vài khúc sông nhỏ chảy vào , cạn dần đi ; không có nước thoát ra . Đây là lòng chảo khổng lồ không hề có nước thoát (vast drainageless basin) , ông Aurel Stein một nhà thám hiểm vùng này đã đặt tên . Sa mạc này nằm trong tỉnh lớn nhất của Trung quốc , Tân Cương . Trong sa mạc Takla Makan nhiệt độ vào mùa đông có thể xuống độ không Fahrenheit , trong khi vào mùa hè có thể lên đến 100 độ F . (37,7 độ C )

Rìa đông của lòng chảo Tarim nằm trong tỉnh Thanh Hải , nơi đây nó chênh chếch tăng dần độ cao khi tiếp xúc với cao nguyên Tây Tạng . Thanh Hải theo tiếng Hoa có nghĩa là Blue Lake , và cũng đồng nghĩa với tên hồ thật lớn đầy muối mặn , Koko Nor (Hồ Xanh theo người Mông Cổ ) ở miền bắc Thanh Hải .

Rìa tây của lòng chảo Tarim bao quanh bởi rặng núi Pamir , nơi đây khí hậu khắc nghiệt , thay đổi thật nhanh và có những cơn gió hung bạo . Những người dân ở đây vừa chăn dê cừu vừa trồng trọt để bổ khuyết sinh sống trên miền cao . (8) Trong vùng thung lũng thấp ít có dân cư sống về nghề cày cấy . Những ngọn núi cao nhất nơi đây cao hơn 22000 bộ (6700 mét) , và trong các thung lũng hình chữ U mênh mông , bò lông dài yak và dê nhai gặm cỏ dai nhắc mọc vào mùa hè .

Dọc theo rìa tây bắc lòng chảo Tarim là rặng núi chạy đông tây , băng tuyết quanh năm , Thiên Sơn (9) (Tian Shan) , hay còn gọi là Celestial Mountains . (10) . Chúng chia lòng chảo Tarim ra khỏi lưu vực khô ráo khác từ phương bắc , Dzungaria . Đây là bình nguyên to rộng đầy cánh đồng cỏ và đầm lầy muối mặn , bao quanh bởi các ngọn đồi núi , nổi tiếng là ngọn núi Altai , điểm mốc giữa hai nước Nga và Mông Cổ . Đông vào mùa sớm và thường khắc nghiệt . Vào tuần lễ thứ ba tháng Chín lá cây đã đổi màu .

Phía đông lòng chảo Dzungaria là sa mạc lớn nhất , Qua Bích (Gobi) 11) . Phần lớn nằm trong lãnh thổ Mông Cổ , nhưng một phần lại nằm trong biên giới Trung quốc bây giờ thuộc tỉnh Nội Mông (Inner Mongolia) , một cao nguyên nằm sâu nội địa mênh mông . Một lần nữa , khí hậu băng giá vào mùa đông , và nóng vào mùa hè . Trong tỉnh Nội Mông rất ít có cây lớn . Từ trung tuần tháng Sáu đến đầu tháng Chín lượng mưa chỉ đủ cung cấp cho mùa màng trồng trọt , và cho những cánh đồng cỏ xanh tươi .

Đứng cách xa những triền đồi hình cong mấp mô dạng sóng (rolling hills) , các lòng sông khô cạn nằm rải rác , địa thế khá bằng phẳng , không chỗ ẩn núp mỗi khi gặp cơn gió bão nổi lên .

Phong cảnh đẹp như vậy nhưng chỉ có sự gan dạ , đầy tháo vác mới có thể sinh tồn được , miền Nội Mông chỉ là quê hương cổ truyền lâu đời của dân du mục . Trong mấy trăm năm mới đây , người dân Hán tới đây sinh sống , trồng trọt và cày cấy . Trong kỷ nguyên mới , các công ty nổ mìn và nhiều công ty khác nhất quyết khai thác và rút chiết ra những tài nguyên khoáng sản màu mỡ , tạo ra những mỏ lộ thiên (open-pit mining) , những thị trấn và thành phố quanh nơi họ làm việc . (12)

1. They're traditionally home of non Han peoples of many distinctive cultures , shapes in no small part by their unique physical enviroments .
2. hardy crop .
3. Sông Yarlung Tsangpo bắt nguồn ở cao nguyên tuyết băng Jima Yangzong gần núi Kailash ở phía bắc Hi mã lạp sơn. Dòng sông sau đó xuôi chảy về phía đông khoảng 1.700 km, với độ cao trung bình 4.000 mét so với mực nước biển, và là con sông lớn cao nhất trên thế giới. Ở điểm cực đông, nó chảy vòng xung quanh núi Namcha Barwa và tạo nên vực núi Yarlung Tsangpo, được coi là hẻm núi sâu thẳm nhất thế giớị
4. Assam nổi tiếng với chè Assam, tài nguyên dầu mỏ , lụa Assam và nổi tiếng vì sự đa dạng sinh học Assam. Bang đã bảo tồn thành công Tê giác Ấn Độ một sừng khỏi tuyệt chủng ở Kaziranga, hổ ở Manas và cung cấp một trong những nơi sinh sống cuối cùng của voi châu Á. Bang đã đang ngày càng trở thành một điểm đến du lịch phổ biến của du khách thamn quan cuộc sống hoang dã và đáng chú ý là có Kaziranga và Manas đều là di sản thế giới . Assam cũng nổi tiếng vì có rừng cây Sal và các loại lâm sản, hiện nay đã bị suy kiệt rất nhiều. Là một vùng đất có lượng mưa cao, Assam được thiên nhiên ban tặng con sông vĩ đại hai bên có cây cối sum suê Brahmaputra, một con sông có các nhánh và các hồ vòng cổ cung cấp khu vực địa ma.o-thủy mạo độc đáo và một môi trường đe.p. (Theo Wikipedia)
5. Bò Tây Tạng (danh pháp khoa học: Bos grunniens) là một loài bò lông dài được tìm thấy trong suốt khu vực Himalaya ở miền nam Trung Á, bao gồm cao nguyên Thanh-Tạng và xa về phía bắc tới tận Mông Cổ. Ngoài các quần thể thuần hóa lớn còn có các quần thể nhỏ bò Tây Tạng hoang dã dễ thương tổn. Trong tiếng Tạng, từ gyag chỉ được dùng để nói tới các con đực của loài này; còn con cái được gọi là dri hay nak. Trong một số ngôn ngữ vay mượn từ gyag, như tiếng Anh, người ta dùng từ yak để chỉ cả hai giới . (Theo wikipedia)

6. Sa mạc Taklamakan (Takelamagan Shamo, 塔克拉玛干沙漠, Tháp Khắc Lạp Mã Can sa mạc), cũng gọi là Taklimakan, là một sa mạc tại Trung Á, trong khu vực thuộc Khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nó có ranh giới là dãy núi Côn Lôn ở phía nam, dãy núi Pamir và Thiên Sơn (tên cổ đại núi Imeon) ở phía tây và phía bắc.

Taklamakan được biết đến như là một trong các sa mạc lớn nhất trên thế giới[1], đứng hàng thứ 15 về kích thước trong số các sa mạc lớn nhất không ở vùng cực của thế giới[2]. Nó bao phủ một diện tích 270.000 km² của lòng chảo Tarim, dài khoảng 1.000 km và rộng khoảng 400 km. Ở rìa phía bắc và phía nam của sa mạc này là hai nhánh của Con đường tơ lụa do các lữ khách đã tìm kiếm ra để tránh vùng đất hoang khô cằn[3]. Trong những năm gần đây, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã xây dựng đường cao tốc xuyên sa mạc để nối liền các thành phố Hòa Điền (Hotan, ở rìa phía nam) với Luân Đài (Luntai, ở rìa phía bắc). (Theo wikipedia)

7. Hồ Thanh Hải (tiếng Trung: 青海湖, bính âm: Qīnghăi hú) hay hồ Koko Nor (từ tên gọi trong tiếng Mông Cổ) là hồ lớn nhất Trung Quốc và còn là hồ nước mặn lớn thứ hai thế giới sau Great Salt Lake ở Mỹ. Hồ Thanh Hải cũng là hồ rộng nhất không có hệ thống thoát nước ra ngoài tại Trung Quốc tọa lạc trên độ cao 3.205 m-3.260 m so với mực nước biển trên bồn địa của cao nguyên Tây Tạng, cách thủ phủ tỉnh Thanh Hải là thành phố Tây Ninh khoảng 100 km về phía tây. 23 sông và suối đổ nước vào hồ Thanh Hải . (Theo wikipedia)
8. Herders and seminomadic agriculturalists eke out a living at higher elevation .
9 . Trong truyện Lục Mạch Thần Kiếm của Kim Dung có nhắc đến bà "Thiên Sơn Đồng Mỗ " . Bà ta tu luyện ở núi này và Thiên Sơn Viên Đại Hiệp đi bắt loài lang sói ở đây về nấu món "Thiên Sơn Thất Lang Đại Cẩu Pín " .
10. Thiên Sơn (tiếng Hán: 天山, Pinyin: tiān shān; có nghĩa là "núi trời"), là một dãy núi nằm ở khu vực Trung Á, về phía bắc và phía tây của sa mạc Taklamakan trong khu vực biên giới của Kazakhstan, Kyrgyzstan và khu tự trị Tân Cương Duy Ngô Nhĩ ở phía tây bắc Trung Quốc. Về phía nam, nó nối liền với dãy núi Pamir.

Tên gọi Thiên Sơn được sử dụng rộng rãi hiện nay là sự phiên âm sang tiếng Trung của tên gọi trong tiếng Duy Ngô Nhĩ Tengri Tagh (dãy núi thần linh).

Trong bản đồ học phương Tây thì khu vực kết thúc phía đông của nó thường được hiểu là ngay trước Ürümqi, trong khi dãy núi về phía đông thành phố này gọi là dãy núi Bogda Shan. Tuy nhiên, trong bản đồ học Trung Quốc, từ thời nhà Hán tới ngày nay, Thiên Sơn được coi là bao gồm cả Bogda Shan và dãy núi Barkol.

Thiên Sơn là một phần của vành đai kiến tạo núi Himalaya được hình thành do va chạm của các mảng kiến tạo Ấn Độ và Á-Âu trong đại Tân sinh. Nó là một trong những dãy núi dài nhất ở Trung Á, kéo dài khoảng 2.800 km về phía đông tính từ Tashkent ở Uzbekistan.

Đỉnh cao nhất của dãy núi Thiên Sơn là đỉnh Pobeda với độ cao 7.439 m (24.408 ft), và là đỉnh cao nhất ở Kyrgyzstan, nằm trên biên giới với Trung Quốc. Đỉnh cao thứ hai của Thiên Sơn là đỉnh Khan Tengri (thần linh hồn), có độ cao 7.010 m, nằm trên biên giới Kazakhstan-Kyrgyzstan. Hai đỉnh núi này được phân loại là hai đỉnh cao trên 7.000 m nằm cao nhất về phía bắc của thế giới.

Hành lang Torugart, nằm ở độ cao 3.752 m (12.310 ft), nằm trên biên giới giữa Kyrgyzstan và khu tự trị Tân Cương của Trung Quốc.

Dãy núi Alatau có rừng, nằm ở cao độ thấp hơn ở phần phía bắc của Thiên Sơn, có những bộ lạc dân chăn thả gia súc sinh sống. Họ nói tiếng Turk.

Các con sông chính chảy trong khu vực Thiên Sơn là sông Syr Darya, sông Ili và sông Tarim.

Một trong những người châu Âu đầu tiên đến Thiên Sơn và có miêu tả về nó chi tiết là nhà thám hiểm người Nga Peter Semenov Tyan-Shansky vào thập niên 1850. (Theo Wikipedia)

11. Sa mạc Qua Bích (Gobi) theo như người Mông Cổ gọi là vùng biển cạn (Dry Sea ) . Nơi đây từng là vùng các loài khủng long , bạo long như Velociraptor , Protoceratop sinh sống . Bây giờ là coi như là một nghĩa địa các hóa thạch loài khủng long .

12. Gần đây người Trung quốc sẽ đưa vào 10000 người tới khai thác quặng bauxite ở Tây Nguyên Việt Nam .

Saturday, February 7, 2009

Lò nướng bằng đất sét (tandoor) (Hình lấy trên nét)

Bên kia Vạn Lí Trường Thành

Bên kia Vạn Lí Trường Thành
(Beyond the Great Wall )

Tác giả : Jeffrey và Naomi Duguid
Người dịch : Tung Sơn

Lời giới thiệu

Bản đồ thế giới có thể nhìn thật khác biệt nếu như thay vì tô vẽ những đường biên giới về chính trị bằng những vùng căn cứ theo tập quán văn hoá và ẩm thực . Tây ban nha , Vương quốc Anh , Ấn Đô, tất cả sẽ có cái nhìn rất khác xa , nhưng cả thế giới chỉ có một quốc gia lại có một sự phân biệt đậm nét nhất ngày nay - là Trung quốc .

Ba phần tư miền đất hiện giờ chúng ta gọi là Trung quốc , theo lịch sử là quê hương những sắc dân không thuộc dân tộc Hán . Tây Tạng , tỉ dụ , từng là một quốc gia Hi mã lạp sơn rộng lớn ngang ngửa với Trung Hoa . Tương tự , vùng đất Con đường Tơ lụa (1) miền Viễn Tây (ngày nay là Xinjiang , Tân Cương , bây giờ là quê hương người Hồi Hột (Uighurs) (2) , cũng như người Tajiks, Kazakhs, Tuvans, Tatars , Mông Cổ và Kirghiz, thỉnh thoảng nằm ngoài sự kiểm soát của Trung Quốc , đôi khi kết hợp lại , có khi lại phân rẽ thành bộ tộc nhỏ (3) . Mông cổ , văn hóa ngày nay tách ra làm thành hai quốc gia , từng là một nước có quân lực hùng mạnh nhất trên thế giới . Và về miền tây bắc đầy núi rừng , đặc biệt là tỉnh Vân Nam , Quí Châu (nền văn hóa miền này gần gũi với dân tộc Đông Nam Á hơn dân Trung Hoa ) , nơi đây kết hợp nhiều sắc dân văn hóa đa dạng hơn những nơi khác trên thế giới .

Trong cuốn sách này , mục tiêu mà chúng tôi nhắm tới , vẽ một bản đồ mới Trung quốc , một bản đồ về ẩm thực mà nó tập trung những miền xa xăm (outlying) của nước Trung Hoa hiện đại , một vùng chúng tôi ám chỉ đến " Bên kia Vạn Lí Trường Thành " , và tới những dân tộc đang sinh sống ngoài đó . Bên kia Vạn Lí Trường Thành là một lời lẽ ẩn dụ nói bóng về cách cư xử của người Hoa đối với các dân không thuộc dân Hán , kể cả các dân tộc sống trong lãnh thổ của Trung quốc - những sắc dân theo truyền thống người Hán là - kém văn minh và mọi rợ , đông di , tây địch , nam man . (4)

Chúng tôi đã đi du lịch miền này nhiều lần . Thực vậy , tại xứ Tây Tạng chúng tôi biết nhau lần đầu vào năm 1985 . Trước đó nhiều năm từ thuở thơ ấu , cả hai chúng tôi bị quyến rũ bởi tất cả những miền khác nhau bên ngoài Vạn Lí Trường Thành . Chúng tôi đọc sách nói về Tây Tạng , các dân du mục và khách hành hương , về bề dày lịch sử tôn giáo , văn hóa của nó, và nói đến những con sông bao la huyền bí trên các núi cao Tây Tạng , từ khắp bốn phương chảy lan đi . Chúng tôi có đọc qua miền Trung Á nước Trung quốc , về Con Đường Tơ Lụa cổ xưa và ông Marco Polo , về những nhà thám hiểm băng qua sa mạc Takla Makan . Chúng tôi coi qua về các thảo nguyên (steppe) người Mông cổ và về Thành Cát Tư Hãn và đoàn chiến binh hùng dũng . Có những nơi dễ mơ mộng : bầu trời xanh thẫm bao la , đỉnh núi tuyết phủ trắng quanh năm , những đoàn lạc đà lữ hành và những ốc đảo xanh tươi nồng nhiệt đón chào .

Trung quốc mở cửa biên giới và những năm đầu thập niên 1980 , và có khi riêng rẻ , có khi đi chung , chúng tôi dự định du hành khắp những miền biên ải Vạn Lí Trường Thành chừng chục năm . Tuy nhiên , một khi có một dự án khác xen vào , chúng tôi bớt ít thời gian nơi đây , xuống còn sáu bảy năm thôi .

Khi chúng tôi bắt đầu cái đề án này , chúng tôi không nhẫn nại chờ đợi nữa , bắt đầu du hành , lại tới viếng thăm những nơi chúng tôi yêu thích , tới những cánh đồng xa xăm . Từ trong tư duy chúng tôi nghĩ ra đã từng nêm nếm mùi vị mì vắt bằng tay (5) , bánh mì dẹp nướng trong lò đất sét ở ốc đảo miền Hồi Hột , dưa gang và nho thơm Hami , món kế báp (kebab) thịt trừu non thơm vị cumin (thì là Ai cập) hăng hắc , những trái ớt , miếng cà chua phơi khô dưới ánh mặt trời (sundrench tomatoes) . Chúng tôi có thể ngửi đến mùi gió băng giá miền núi cao Tây Tạng và tưởng như chừng lang thang trên dặm đường thiên lí mênh mang với khung trời xanh lơ vời vợi . Trong tâm tưởng chúng tôi mơ màng đang ngồi vắt chân trên ngôi nhà sàn lợp tre cổ truyền của người Dai (Thái Lự ,Lữ ; Tai Lu ) tận vùng sâu tít miền nam Vân Nam , đang dùng tay ăn những miếng xôi , chấm vào tương ớt cay nồng .

(Còn tiếp)

1. Silk Road region of the far west .
2. Uyghur : Uyghur: ئۇيغۇر; simplified Chinese: ; Người Anh đọc là "wEEger" , âm Việt : ui-gờ . (tiếng Trung: Weihu, Duy Ngô Nhĩ), là một dân tộc Trung Á sống chủ yếu ở tỉnh Tân Cương và Hồ Nam, Trung Quốc, Tây bá lợi Á Nga (Siberia), Pakistan, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Mongolia, Uzbekistan, Đức và Thổ Nhĩ Kỳ. Ở Trung Quốc, họ được gọi là người Hồi Hột , tên này có nghĩa là Liên Minh Cửu Tộc (Confederation of Nine Tribes ).
Dân số họ khoảng một triệu ngườị Người Uyghur mang trong mình dòng máu pha trộn giữa người Mông cổ và người Kokasoid. Tổ tiên của họ từng là một thế lực đáng kể ở phía Bắc Trung Quốc thời Đường tới thời Tống. Tôn giáo chính hiện nay của họ là Hồi giáọ Người Uyghur giỏi sản xuất nông nghiệp, thủ công nghệ và buôn bán.
3. fiefdom, fief, feud, feoff, fee : bộ tộc .
4. those the Han-Chinese traditionally regarded as uncivilized or barbarian .
5. tandoor (flatbread) : A tandoor is a cylindrical clay oven used in cooking and baking.

Nhưng vào năm 2005 , trên hai chuyến hành trình đơn độc đầu tiên tới Trung Quốc trong quyển sách này , cả hai chúng tôi đều không chuẩn bị kỹ cho những thứ mà chúng tôi tìm thấy . Chúng tôi hoàn toàn bị thụ động với đầy sự kinh ngạc . Chúng tôi được nghe tất cả tin tức về một nền kinh tế phát triển nhanh chóng . Chúng tôi trao đổi với bạn bè cùng sở thích về sự thay đổi mau lẹ này . Chúng tôi từng đọc , tra cứu sách vở tài liệu . Nhưng rồi chúng tôi vẫn chưa sẵn sàng . Trung quốc vào thế kỉ hai mươi mốt thật hoàn toàn khác biệt với Trung quốc chúng tôi gặp gỡ vào những năm 1980 .

Chúng tôi nhận thức ra chúng tôi đang chứng kiến cho một sự thay đổi kinh tế và gây ấn tượng sâu sắc nhất trong khoảng thời gian rất ngắn ngủi . Trung quốc như là một con sông đầy sóng gầm , dâng cao theo từng ngọn thủy triều , cuồn cuộn trôi về mãi xa . Một đàng như giọng nói quyến rũ , mê hoặc , nẻo kia đầy nỗi lo âu . (1) Bởi mục tiêu chính của chúng tôi là tìm kiếm , càng nhiều càng tốt , với những con mắt người dân sinh sống chung quanh , và ngoài cùng của trung tâm Trung quốc , những gì chúng tôi thấy đáng cảnh giác .

Nền thịnh vượng về kinh tế Trung quốc gập ghềnh mấp mô bừa bãi (2) , và những gì không thuộc Hán (Han China) thì thông thường đi vào ngõ cụt . Những cơn nhập cư đông đảo từ các vùng có mật độ dân số cao đến những miền dân cư hẻo lánh ở Tây Tạng và Tân Cương cho thấy thế áp đảo hoàn toàn đến nền văn hóa địa phương .

Để cho các bạn một ý thức về tất cả sự thay đổi này , chúng tôi xếp đặt các "câu chuyện" theo lịch trình , khởi đầu với chuyến du hành đầu tiên của bà Naomi vào Trung Hoa lục địa mùa hè năm 1980 , và cho đến những chuyến đi về sau này . Chúng tôi ước mong rằng sự sắp xếp các mẫu chuyện theo một cách có thể bạn hình dung được những sự đổi thay đầy cảm giác của những vùng ngoài Vạn Lí Trường Thành , không những chỉ về văn hóa mà còn về ẩm thực . Mỗi chương bao gồm sơ lược tóm tắt về một sắc dân nào đó , người Hồi Hột , người Tây Tạng chẳng hạn . Dĩ nhiên không thể nào cứ tóm lược từng chi tiết một , nhưng chúng tôi hi vọng sẽ đưa ra một số ý kiến về sự đa dạng của những dân tộc ngoài này . Cũng như , lần đầu tiên , chúng tôi ký tắt chữ " N " hay là "J" vào cuối mẫu chuyện hầu các bạn có thể đoán ai là tác giả . (N là bà Naomi , J là ông Jeffrey )

Đây là cuốn sách nói về ẩm thực , cách nấu nướng , không phải là luận án , nhưng có lẽ là sách nấu ăn có thêm gia vị "chính trị " mà chúng tôi đã từng viết (mặc dù chúng tôi nghĩ rằng tất cả sách nấu nướng của chúng tôi , và rất nhiều sách về ẩm thực chúng tôi khen ngợi , đều có hàm nghĩa chính trị bên trong ) . Nói đến thực phẩm và cách nấu , Trung quốc là nơi xuất sắc phi thường . Sự đa dạng , tính khéo léo , tài tháo vát , bề dày lạ thường của lịch sử , truyền thống , và văn hóa - tất cả làm ra thức ăn Trung quốc , ăn uống tại Trung quốc , một trong những cái hoan lạc đời người . Nhưng miếng ăn ở Tây ban nha không chỉ là miếng ăn tại Madrid hay Barcelona , thực phẩm của Trung quốc còn nhiều thứ hay ngon hơn thức ăn tại Bắc Kinh , Thượng Hải và Quảng Châu . Từ Tây Tạng đến Tân Cương (3) , từ Nội Mông đến Vân Nam , thức ăn du hành liên tục qua lại trong các miền này , đã lai giống sinh sôi nẩy nở (4) , qua nhiều niên thế kỉ .

Và ngày nay càng có những cuộc du hành .

Cuốn sách này không những chỉ nói đến đồ ăn các dân tộc sinh sống ngoại vi bức Trường Thành to lớn này mà còn ám chỉ đến sự tồn vong văn hóa và sự bảo quản thực phẩm , văn hoá của các hội đoàn xã hội nhỏ bé so với tác động của anh chàng khổng lồ tại ngưỡng cửa (Hồng Môn Đại Yến ) .(5)

Chú thích:
1. On one hand it is mermerizing , and on other hand frightening .
2. wildly uneven .
3. Tân : mới ; Cương : lãnh thổ .
4. cross-fertilized .
5. but also cultural survival and the preservation of food and culture in smaller societies faced with the impact of a giant at the doorstep .

Đoạn này làm người dịch nhớ lại chữ Ngưỡng cửa , Hồng Môn đại yến , Hạng Võ (nước Sở) mời Lưu Bang (Hán) tới dự tiệc Hồng Môn để trừ hậu hoạn . Ai dè Hạng Võ không nghe lời quân sư Phạm Tăng , không giết Lưu Bang , để rồi bị quân Lưu Bang đuổi tới cuối Ô giang , tự vẫn chết . Và rồi dân Hán sinh sôi nẩy nở mau lẹ đến ngày nay .

Thà như Hạng Trang , ai muốn múa kiếm giúp vui , chắc ngày nay chắc thế giới có bộ mặt thật khác lạ .

Ngày 7.2.2009

Ngày 7/2/2009

Rượu bia

Rượu bia

Thật ra chỉ có một luật lệ đặt ra ở vùng Đông Nam Á là uống cái gì lúc nào , khi nao uống cái chi , bạn cần phải ăn . Hiếm hoi thấy một người nào đó ngồi nhâm nhi mà không xơi cái gì hết : ăn uống hai thứ mật thiết đi đôi với nhau , ăn nhậu . Nhưng đối với loại rượu vang , bia , và rượu mạnh , uống ra làm sao , với cái gì , không có luật lệ .

Bởi vì Pháp để lại cái di sản trong miền Đông Nam Á , rượu vang Pháp có mặt hầu hết trong các thành phố lớn nhỏ của Việt Nam , Lào và Cam Bốt . Ngay cả bên Thái Lan , trong thập niên qua (nhất là với những người có lợi tức đồng niên cao ) , người dân bắt đầu uống rượu nhập cảng . Hiện nay miền đông bắc Thái có một khu vườn trồng nho ở gần Loei , vườn nho sản xuất được một loại rượu khá thơm ngon .

Nhưng , thành thật mà nói , chúng tôi nhận thấy uống rượu vùng này với thức ăn có vẻ hơi man mát (1) . Vì chính là , món ăn thường rất cay , đôi khi còn cay xé lưỡi . Tại sao lại phí rượu ngon như vậy ? Tốt nhất , chúng tôi nghĩ là , mượn phong tục người Thái cách uống rượu đế hay rượu rum (2) , bỏ tí đá cục và hòa một chút nước sô đa (soda water) . Trong bữa tiệc giàu có của Thái , rượu đế hoặc rượu rum thay thế bằng rượu uýt ki nhập cảng Ê cốt (3) , cũng pha thêm nhiều nước sô đa .(Không phải là đã không nghe rằng ở Thái Lan rượu vang đỏ pha với nước sô đa , quá thịnh hành vì theo thói quen uống rượu cồn pha loãng ) . Ở vùng Đông Nam Á chỗ nào cũng có món ăn cổ truyền , bữa ăn ngày Tết , có thể kéo dài thật lâu , với từng món ăn lần lượt mang tới bàn tiệc , hết món này tới món khác . Ly rượu mừng được nâng cao trong "khí thế " của dân nhậu , không khí tưng bừng , mà không hề đề cập đến việc uống cho đã khát .

Bia cũng là một loại nước uống say sưa thông thường . Ở mỗi nước đều có vài loại bia địa phương khác nhau , nhiều cũng như loại bia nhập , và chúng tôi khá ưa thích một số bia lô canh đó . Trong Vân Nam , như những tỉnh còn lại của Trung Hoa , mỗi thủ phủ chính đều có xưởng chế tạo bia địa phương (4) , và thật kì diệu loại bia đó bằng cách nào đó đã len lỏi vào tận những vùng sâu xa đến tận các bản làng nhỏ bé ( các cộng đồng dân cư .) Vào năm 1989 , chúng tôi vào miền đồng bằng Cửu Long ở Việt Nam , vào những vùng xa cuối tận nước này , uống được loại bia chai Trung Quốc trong thời gian hai nước gần như xảy ra chiến tranh .

Tỉnh Vân Nam cũng có khá nhiều loại rượu mạnh khác nhau , phần lớn chế ra từ kê (millet) , lúa miến (sorghum) , và lúa gạo . Một lọai phổ biến , rượi "Bai jiu" , hay còn gọi là rượu trắng , từ lúa miến mà ra và có mùi vị chúng tôi không bao giờ ưa được ; đúng ra , chúng tôi nhận ra nó có mùi hôi thối . (5) Còn những loại rượu mạnh khác thì trái lại , và luôn luôn đáng thưởng một ngụm uống thử đầy phiêu lưu . (6) Nói chung , chúng thường rất mạnh , có độ cồn cao , từ năm mươi đến sáu mươi phần trăm . Đôi khi chúng tôi bắt gặp trong những cái bình rượu rắn hay vài con vật nào đó . Rượu thuốc chữa bệnh mà , bệnh bất lực hoặc là tuần hoàn máu huyết hay là bất cứ lí do gì cũng được . Chúng tôi không dám dẫn chứng hiệu quả của nó, nhưng nếm cũng khá , thỉnh thoảng có hương vị nồng nàn .

Chưa hết đâu , còn một thứ mà chúng tôi gọi là rượu vang (wine) , vì không biết gọi làm sao , chắc thiếu chữ . Nổi tiếng là rượu LAO KHAO của hai nước Lào, Thái , chế từ gạo tẻ hay gạo nếp , rất nồng mạnh , nếm như mà vẫn không như rượu sa kê (sake của Nhật ) . Rượu chế từ gạo có thể mua rất mắc và được săn đón (7) ở Trung quốc hoặc là chúng trở thành thông thường quá , giá rẻ mạt . Nếu chúng tôi ra ngoài đồng đang mùa gặt , hay dùng bữa tối trong một nhà hàng nhỏ ở miệt xa sâu , chúng tôi đôi khi thường được phục vụ đãi khách bằng vài loại rượu biến chế (version). Chúng tôi cảm thấy cõi lòng lâng lâng , ngay cả biết ơn , dâng tặng đến loại thức uống tự chế trong nhà , làm ra từ gạo địa phương , sáng tạo ra món uống chếnh choáng tại nơi đây , đúng như vậy .

Chú thích :
1. crazy : điên , mất trí .
2. to borrow the Thai tradition of drinking a local whisky or rum .
3. At a well-heeled Thai meal , the whishey or rum becomes an inported scotch ,
4. local produced beer : bia hơi , bia địa phương .
5. in fact , we find it absolutely foul .
6. always worth at least an adventurous sip : có thể đi thăm ông bà luôn , như có người thử rượu Ngũ Gia Bì (Ngủ Li Bì) .
7. sought after .
8 . Theo tôi tác giả khá chủ quan về cách thức uống rượu của các dân tộc miền Đông Nam Á . Từ thuở xa xưa người dân có thói quen uống rượu đế (Việt Nam ) , rượu Monsoon Valley, Sabai ,Spy (Thái ) , rượu nồng mà thiếu thức ăn đưa cay thì các dân nhậu kêu ca . Một lẽ nữa bụng dạ người dân xứ này không thừa thãi mỡ bụng , khi uống rượu men tác dụng vào khiến họ xót xa dạ dày . Một trái cóc , miếng xoài chua hoặc một con cá khô đủ làm mồi đưa đẩy ly rượu . Đến khi có loại rượu ngoại vào , Martell XO, Hennessy XO, Courvoisier, Remy Martin hay Napoleon du Armagnac dù có hương vị tình nồng nhưng theo thói quen dân nhậu vẫn thích nhâm nhi với vài món nhậu : dê xào lăn , bò tái chanh , mực khô nướng dòn . Dân ít tiền hơn , thuộc lớp bình dân có thể dùng bia địa phương : bia Tiger , bia Hà Nội , bia Vida (Nghệ An) , bia Sladex (Quảng Bình) , bia Vinagel (Khánh Hoà) , bia Tubor (Huế) .

Hoang Hac dịch 7 tháng 2 năm 2009

ooooOOOOOoooo

Chúng tôi gởi lời cảm tạ đến các bạn hữu khắp vùng Đông Nam Á , mà phần lớn không nhớ hết , từ các bà buôn bán ngoài chợ đến các bác đầu bếp trong làng , đến các bạn dân chài cũng như các bạn làm nghề nông . Ngoài ra , chúng tôi chân thành gởi đến các bạn ở Trung Quốc , Miến Điện , Lào , Thái Lan , Cam Bốt , Việt Nam , và đến các bạn ở Bắc Mỹ châu . (Tóm tắt )

Tác giả : Ann .

Cuốn sách này phần lớn giới thiệu về các món ăn vùng Đông Nam Á , và các hình ảnh . Rất tiếc tôi không thể dịch hết toàn bộ .

Dịch giả : Tung Sơn (Hoàng Hạc)

Wednesday, February 4, 2009

Tiến vào vùng đồng bằng

Tiến vào vùng đồng bằng

Gần chín năm tôi mới quay trở lại sau chuyến du lịch đầu tiên tới miền châu thổ sông Cửu Long , lần này một mình tôi , vào mùa mưa . Tại thành phố Cần Thơ (trung tâm của miền này ) , tôi tạm trú ở một nhà nghỉ rẻ tiền quản lí bởi một bà tên là Lộ Lộ (Lulu) và một ngôi chùa Tàu cũ kỷ .

Bà Lộ Lộ là một người Trung quốc , da dẻ mịn màng và mủm mỉm . (1) Bà cùng với chồng bán đêm (2) , bắt đầu từ năm giờ chiều ; cô em bà làm ngược lại , ca mười hai tiếng , một tuần bảy ngày . Nhà hàng đóng cửa đã mười năm sau cuộc chiến 1975 , khi mà buôn bán cá thể (3) bị cấm đoán bởi chính quyền Hà Nội . Nhưng vào khoảng giữa thập niên 1980 , mọi việc được thả lỏng , và bây giờ nó là nơi tấp nập , không những buổi trưa buổi tối , nhưng suốt đêm khuya , cả người lái đò và kẻ buôn bán ngoài chợ sau những chuyến xuống hàng bên bến ghé vào ăn .

Vào một ngày một cô lái đò hoạt bát tên là Vui cùng với bạn cô , Hạnh ngồi kề bên tôi rồi tán gẫu với tôi trong khi tôi đang dùng cơm trưa ở quán bà Lulu . Họ thuyết phục tôi để mướn họ trong chuyến dạo chơi sáng sớm loanh quanh dọc theo những con rạch nhỏ không xa thành phố Cần Thơ mấy .

Bình minh chúng tôi đã tới một khu chợ bán buổi sáng, chợ nổi . Tại đây , những chiếc ghe trở thành cái sạp , bán đủ thứ từ đồ gia dụng , nồi niêu song chảo , chậu sô nhựa , thìa muỗng dao búa kim loại cho đến hàng khô , vật dụng vệ sinh , rồi đến thức ăn đủ loại hầm bà lằng . Người bán giơ chiếc cân tay trên không bởi vì không có chỗ dựa trên mặt đất . Những chiếc ghe kẻ bán người mua chòng chành , được dính chùm với nhau qua bàn tay trong khi người mua đang lựa lẫm mặc cả rau quả . Người bán hàng ăn với nồi nước lèo (4) , yến bánh hủ tiếu , bún (5) cao ngất cùng với đống rau thơm , tất cả bày biện trong khoang ghe chật hẹp . Chúng tội tạt vào một cái "sạp" , gọi món ăn , và chốc lát được bê trao ra một tô hủ tiếu hơi nghi ngút , to bự bằng sứ trắng tinh . Chúng tôi ăn thật vội vàng với đôi đũa và thìa , trả lại tô chén và bỏ đi . (6)

Hai ngày sau đó , chúng tôi làm một cuộc hành trình lớn . Trên chiếc ghe dài có gắn động cơ thật mạnh do một người bạn của họ điều khiển có tên là Tranh . Chúng tôi đi băng qua nhánh sông rẽ về phương nam của dòng sông Cửu Long và vào tận tỉnh Trà Vinh , một chuyến đi mà Tranh cũng chưa từng tới đó . Khi trời hừng sáng , chúng tôi phải vượt qua con sông lớn và tới Trà Vinh trước khi ghe công an đi tuần kiểm tra , bởi vì du hành bằng đường sông qua các tỉnh mà không có giấy phép đều là vi phạm luật . Một khi chúng tôi vào giang địa mới , một mê cung với những con kinh thẳng tắp và rạch ngòi ngoằn ngoèo , chúng tôi phải dừng lại dăm ba lần để hỏi thăm lối vào .

Chúng tôi băng qua nhiều dặm đường sông , nhiều giờ xuyên qua những vùng trũng đầy cỏ xanh thẫm . Chúng tôi đi ngang qua vài ngôi làng và chợ nổi , chúng tôi đã thấy dân chài lưới , nông dân cũng như đàn bà giặt giũ và trẻ con nô đùa . Dân chúng tò mò nhìn chúng tôi mỗi khi chúng tôi dừng ghe lại hỏi thăm đường đi , nhưng chúng tôi không bị phiền phức gì và cuối cùng , hài lòng và yên tâm , chúng tôi tới thị xã Trà Vinh , một thủ phủ còn đang ngủ của tỉnh Trà Vinh .

Trời đã xế trưa , vì thế chúng tôi ăn qua loa và tham quan một ngôi đền Khờ me trước khi cô Hạnh và Vui phải ra về . Khi chiếc ghe rồ máy , de lại trên con kênh , quay ngược về Cần Thơ , họ cứ vẫy tay chào . Rồi tôi đi tìm một nơi để nghỉ chân .


1. smooth-skinned , plump .
2. work the evening shift : la`m ca ba .
3. private enterprise was discouraged by the Hanoi goverment .
4. cauldron : va.c , cha?o to .
5. piles of noddles .
6. pushed off : leave , depart .

4.2.2009

Monday, February 2, 2009

Những ổ bánh mì miền Cửu Long

Những ổ bánh mì miền Cửu Long

Những loại bánh mì kết hợp (1) kẹp thịt săng quích , làm ra những ổ bánh mì dài giống như bánh mì ngắn mini ba ghết của Pháp (2) là món ăn mẫu ngoài đường phố từ Sài Gòn qua Nông Pênh hay tới Viên Chăn . Người Pháp đã đưa vào loại bánh mì ổ dài vào thuộc địa Đông Dương gồm Việt Nam , Lào và Cam Bốt và trở thành một món ăn truyền thống bám sát (3) từ các thành thị thôn quê . Bánh mì miền Cửu Long là một thí dụ sáng chói của nền ẩm thực thực dân hoá , pha trộn thành một sáng kiến hay (từ bánh mì dài ba ghết) và thành một (ổ bánh mì kẹp thịt) loại khá hơn .

Vì lúa mì không phát triển trong miền nhiệt đới , người ta phải nhập cảng bột mì . Thoạt tiên là từ Pháp , sau đến Hoa Kỳ ; sau 1975 được chuyên chở từ Liên Xô về , và bây giờ tôi được nghe là hầu hết từ bên Úc Châu . Bánh mì nơi đây hóa ra một loại bánh mì ba ghết biến chế - một kiểu hơi tròn , nhẹ xốp , trắng phau và có sự dòn tan .

Bơ và xốt mai ôn ne , hai sản phẩm của Pháp , đóng vai trò lớn trong loại bánh mì ổ này , dù bạn có thể yêu cầu đừng cho chúng vào . Thêm vào từ ba tê Việt Nam tới xá xíu giò lụa (3) , nhét thêm một vài loại chọn lựa ưa thích , đồ chua củ cải trắng hay cà rốt , ớt đỏ và ít cọng ngò xanh .

Những ngày đó , luồng tư tưởng đi theo một lối khác , và loại bánh mì miền Cửu Long đã chinh phục được miền Bắc Mỹ . Đừng ngạc nhiên : chúng không thể đánh bại .

1. sandwich combos : sandwich combination
2. French baquettes .
3. an entrench part of the food tradition .
4. range from VN paté to cooked sausage to ham .

HH 2/2/2009

Monday, January 26, 2009

Bích

Bích

Một khuôn mặt lanh lợi , giọng khàn khàn (1) , bộ quần áo sạch sẽ trong dáng vóc nhỏ , gầy gò thiếu ăn , đôi chân trần , đây là Bích . Cô bé đi lang thang cùng với một đồng bạn (2) , một cô bé còn nhỏ con hơn cả cô . Bích lên mười tuổi . Cô bé làm tôi chú ý (3) đến cô vào một ngày ở Châu Đốc , đang mời chào bán những tấm vé số cho tôi , và lại quanh quẩn đâu đó . Vài người trong chợ có thể cho cô bé vài miếng ăn ; vài kẻ khác dữ dằn xua đuổi cô bé với một nắm đấm giơ ra . Cô bé có mẹ nhưng lại không có cha . Cô bé đã không đi học , bởi vì tiền học cũng phải có chút đỉnh (4) . Dù sao nó cũng phải kiếm chút tiền và xoay xở miếng ăn để sinh sống qua ngày . (5)

Cô bé có thể biết đếm , và biết giá trị từng tờ giấy bạc "Đồng" , nhưng ở một mặt nào đó tôi nhận ra nó chưa biết đọc những con số (6) . Qua vài mảnh ly nước ngọt và vài ngày , với tiếng Việt Nam lỏm bỏm tôi (6) ráng bới móc trong đầu . Tôi cố gắng dạy nó nhận ra mặt các con số từ 1 đến 10 . Cứ mỗi lần như thế tôi mua cho nó ít tấm vé số .

Vào một ngày cuối ở Châu Đốc , tôi chạy sồng sộc gặp Bích trong chợ . Tôi bảo nó là tôi sẽ ra đi và mời nó cùng đi uống nước với tôi . Chúng tôi ngồi xuống và gọi nước , sau đó tôi đưa cho nó ít tiền và một cây bút và một tập giấy nhỏ để cho nó có thể tập viết các con số . Cô bé ngồi thẳng trên chiếc ghế , ra dáng dễ thương , đong đưa mấy cục đá trong cái ly với ống hút mỗi khi muốn uống . Chẳng bao lâu đến lúc tôi phải đi . Tôi bắt gặp ánh mắt người chủ quán . Bích vẫy tay cấp bách , muốn giữ tôi lại (7) . Nó rút mớ tiền tôi cho nó và trả tiền nước uống . Cô bé có vẻ kiên quyết , không thuyết phục được , gây ra một cảm giác khá kinh ngạc . (8)


1. An alert face , a gravelly voice , clean clothes on an an undernourished half-grown frame , dirty bare legs and feet , this was Bich .
2. sidekick
3. pick me up : động viên , kích thích
4. it costs a little .
5. scrouging food : ăn cắp , ăn xin , xoáy , nẫng thực phẩm .
6. fragments of Vietnamese I could scratched up .
7. Bich waved her hand imperiouly, stopping me .
8. She was firm, unpersuadable,awe-inspiring .

oooOOOOooo

Bữa ăn trong làng

Anh là một ông lái xích lô , gầy gò và gân guốc như giống dân của ông . Ông ta biết chút ít tiếng Anh và đầy tấm lòng . Ông ta suốt ngày đạp xe lòng vòng Châu Đốc (miền Nam Việt Nam ) , nằm ngay biên giới Cam Bốt , tìm khách đi xe thuê và kiếm hàng để chở , đặc biệt tới lui vào chợ . Ông ta bắt gặp tôi tại nhà ga xe buýt , trời đang mưa . Tôi vừa tới đây sau một chuyến đi dài năm tiếng từ thành phố HCM , một chút ngơ ngác từ khoảng đường dài mấp mô , chạy chầm chậm và mơ hồ không biết ở trọ nơi đâu hoặc là tìm thấy nơi nào thì nghỉ ở đó .

Cuối cùng , ở Châu Đốc tôi đã dùng hết cả tuần đi thám hiểm lần mò những vùng ngoại thành với ông Anh . Chúng tôi đi thăm các bè cá nuôi trên sông rạch , mướn xe mô tô (1) vào tận xóm Chàm bên kia sông , nơi đây chúng tôi thấy những đền thờ Hồi giáo và người dân đang dệt những khúc vải dọc và coi soát lại tấm khăn bông sợi trong nhà . Cách những ngôi làng Chàm vài dặm , chúng tôi tới thăm một xưởng dệt lụa tơ tằm , với phụ nữ và trẻ em chăm chỉ làm việc trong những động chan chát của mấy loại máy dệt cũ kỷ . Chúng tôi cũng đi ra tuốt ngoại thành tới thăm những đền chùa ở núi Sam : từ trên đỉnh núi , chúng tôi thấy những mảnh ruộng lúa xanh ngắt vươn qua tới Cam Bốt , và con sông, nâu đỏ và nước dâng cao mỗi khi mưa về , tạo ra một dòng nước rộng xuyên ra vùng lúa xanh rì .

Vào một ngày , ông Anh đưa tôi về nhà ổng giới thiệu cô vợ từng sinh đẻ bên Miên . Bên bếp củi cháy hồng , chúng tôi nấu một bữa ăn trưa thật ngon : có cơm trắng , canh chua , và cá kho tộ mằn mặn pha vị ngòn ngọt . Cùng ăn chung với đứa con của họ , bên chiếc chiếu trúc trên căn nhà gỗ nho nhỏ . Sau đó chúng tôi ngồi xì xào tán gẫu vào buổi chiều ấm áp mơ màng (2) , khi ánh nắng chiếu nghiêng nghiêng qua cánh cửa hé mở .

1. borrowed motobike .
2. We sat quietly chatting in the drowsy warm afternoon , as the sun slanted in through the open doorway .

HH 26.1.2009