Friday, January 9, 2009

Rong sông

Rong sông

Rong sông hay là Khai , nổi tiếng ở bên Lào và miền Bắc Thái , mọc đầy dẫy dưới sông Mekong cũng như các sông rạch chi nhánh phụ lưu của nó . Khi vớt từ dưới sông mang lên , nhìn nó như là đống rong biển tơ nhuyễn , màu xanh mượt mà . Rong được thu hoạch trong mùa đông , từ tháng 11 đến tháng giêng .

Ở Chiang Khong lần đầu tiên chúng tôi trông thấy loại rong sông này ở Chiang Khong , đó là một thị xã nhỏ nằm bên sông Mekong bắc Thái Lan . Không biết nó là giống chi . Rồi cái thứ đó đi đâu cũng gặp , từng bó to khổng lồ xanh biếc nằm phơi khô trên đường rầy và vắt vẻo trên những tấm đan tre dưới ánh nắng chói chan .

Tại thành phố Luang Prabang , một buổi chiều ngồi bên bờ sông Khan , chúng tôi chăm chú nhìn ba bố con lần mò về phía bờ sông , rồi lặn ngụp chừng đôi phút , sau đó họ lên bờ , trông họ bước đi tưởng như chừng ba cây dương xỉ biết đi trên bờ sông .

Biết rong sông Khai là cái chi rồi , chúng tôi bắt đầu để ý tới các tấm đen đen lạ lẫm ấy , như là loại rong biển Nori .

Khi chúng tôi quan sát kỹ , chúng tôi thấy có nhiều trái cà chua khô ép thành miếng , như bông hoa ép dẹp và các tấm đó lấm chấm hạt mè (vừng) . Chúng tôi được biết nó gọi là Khai Pen , rong sông khô . Người ta cắt nó ra thành từng miếng và dùng nó như là một món tăng thêm khẩu vị với các món rau hay cơm chiên , hay dùng nó như là một thứ gia vị hay rắc phủ trên mặt các món ăn . Khai Pen tương đối khá mắc mỏ ở bên Lào , một đô-la cho 4 tấm , một nước mà công thợ chừng 25 xu một giờ . Nhưng nó đậm đà và đầy hương vị . Một chút mà nhớ mãi trên đường trường xa .

Như nhiều loại thức ăn chúng tôi gặp trong miền Đông Nam Á , chúng tôi liệt kê Khai và Khai Pen là thực phẩm chúng tôi có thể ghi chép miêu tả nhưng có lẽ chẳng bao giờ nấu chúng ở quê nhà , nhưng chúng tôi thiệt sai lầm . Vài tháng sau , khi chúng tôi về quê nhà , một gói hàng từ tiệm Lotus Foods ở tiểu bang California , nằm sâu trong đống thư từ chồng chất bao ngày tháng khi chúng tôi còn mãi nơi đâu . Cuối cùng loay hoay mở được nó ra , trong đó một lớp rong sông khô Khai Pen , những lớp rong khô đen đậm tuyệt đẹp , thơm phức mùi hạt mè . Trên đó là một cái thiệp nhỏ với dòng chữ : " Ông bà sẽ thích thú chứ , vừa nhận được rong sông từ bên Lào "

Nếu như bạn đã từng quen với những tấm rong sông khô này , bây giờ nhập cảng từ bên Lào , hãy mua một hay hai gói . Cắt nó ra từng sợi to và đem chiên một chút , bẻ ra ăn với cơm rất ngon miệng .

Nói một cách khác , nếu bạn từng dùng loại rong sông phơi khô còn tươi hói này , đây là cách để pha chế :

Với một mớ rong sông xanh biếc : với 3 hay 4 tách rong , người Shan giã dập 1/2 tách tỏi với chúng , 3 thìa lớn củ giềng , vài trái ớt khô đỏ và muối . Đun chảo cho thật nóng , thêm 1/4 tách dầu ăn , đợi dầu nóng thêm vào gia vị mình thích , hạ thấp lửa vừa vừa , quấy đều chừng 3 đến 4 phút , rồi tắt bếp , cho rong sông vào . Cầm chảo lắc cho rong thấm đều dầu . Nếu bạn muốn thêm cà chua băm hay tí mè hãy cho chúng vào chiên xào trước khi đổ rong vào . Đổ chúng vào đĩa và ăn nóng . Nó sẽ tan nhanh trong miệng .

Và khi bạn ngồi thưởng thức miếng ăn ngon , hãy hình dung ra một bức tranh trong đó ba cha con đội rong như ba cây dương xỉ biết đi dọc theo bờ sông .

Nori seaweed : Loại rong biển bày bán trong các tiệm thực phẩm Á Châu , gói thành từng lớp .

HH di.ch

ơơơơƠƠƠơơơ

Viên Chăn hay Vạn Tượng , thành phố tân tiến của Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào , chưa phải là đô thị như (cosmopolitan city) . Ở đây có nhiều nhân viên Liên Hiệp Quốc và N.G.O (The Non-Governmental Organization , các tổ chức vô chính phủ) hiện diện và rất nhiều tòa đại sứ và lãnh sự , nhưng căn bản Vạn Tượng chỉ lớn hơn tỉnh lỵ , chưa đáng gọi là đô thị . Về đêm thành phố có vẻ sống động trên bốn hay năm con đường chính , với xe cộ 4 Wheel lạ lẫm ( xe lái bằng cả hai bánh trước lẫn 2 bánh sau ) cùng với xe Nhật , loại dùng rồi , chen lẫn lộn với xe gắn máy , xe lam ba bánh , xe đạp và khách bộ hành . Nhóm người ngoại quốc rủ rê ra ngoài ăn : Tiệm cà phê - bánh Thụy Điển , bánh pizza với tiệm ăn Ý xinh xắn , một kiểu khách sạn phăng xi . Và có cả tiệm rượu , tiệm bán rượu ngon , một điều là lạ ở miệt Đông Nam Á này , nhưng vẫn còn ...

Năm 1989 lần đầu tiên chúng tôi tới Vạn Tượng , hầu như không có xe cộ qua lại trong thành phố , và để đi ăn tối chúng tôi phải lần mò xuống hai con đường cuối phố , nơi đây có vài tiệm ăn nhỏ mở cả ngày và đêm . Những tiệm ăn này chủ yếu bán thức ăn Việt Nam , ăn ngon lắm . Vào ban đêm đi tản bộ chúng tôi gặp người ngoại quốc , nhưng họ chẳng để ý nhìn chúng tôi . Hầu hết họ là người Nga , đóng đô bên Lào . Hình như chẳng bao giờ họ nở nụ cười .

Chúng tôi thích ở thành phố này , ước mong có ai mướn chúng tôi làm việc chăng , hay ít nhất cho chúng tôi cái chiếu khán tạm cư khá lâu . Chúng tôi lòng vòng tiệm sách Raintree và trao đổi vài chuyện với chủ tiệm , ông Hodgson , ông này đã mở cửa tiệm buôn bán không biết thăng trầm bao lâu rồi . Và chúng tôi dừng lại chuyện trò với bà Carol Cassidy tại xưởng may dệt Lào Textiles , bà ngồi tuốt đằng sau và theo dõi đám công nhân thêu dệt .

Về buổi ăn trưa , chúng tôi lần khần hết ngày ở ven sông , ăn xôi nếp và gà nướng mua ở một cái quán ven đường chông chênh một cái bàn vài cái ghế đẩu dưới gốc cây cổ thụ , hoặc là chúng tôi gọi mua một đĩa gỏi thịt nướng cay nồng , hoặc là món Laab (thịt heo bầm trộn ớt hay thịt gà trộn với rau thơm) hay là món Son Tam .

Về buổi ăn tối , cũng thường thôi , ăn tối không phải là nỗi lo lắng gì với chúng tôi . Ngoài những cửa hàng với thức ăn Lào ngon miệng , còn có một nhà hàng Ấn Độ , nằm dọc bên sông , gọi là Nazim . Tiệm này bán cả thức ăn miền nam và miền bắc Ấn Độ , cả hai đều khá ngon . Này nhá Masala dosa (món đậu) , Chapatis (món ăn bằng bột mì) , Pakoras (một loại đậu vàng chẻ hai) và Samosas (bột mì) , Dal (đậu) , Baingen (Cà tím , eggplant) , Bharta (món rau băm nhuyễn và nấu chín) , Naan (bánh mì mềm) , Uppuma (cream of wheat) và nhiều món nữa . Dominic và Tashi món nào cũng thích . Chúng nó rất thích ăn xôi nếp , nhưng cái món đậu hầm masala dosas chúng lại còn thích hơn .

Và tiệm Nazim còn bán cả món khoai tây chiên dòn chấm tương cà chua (French fries với ketchup) .

HH di.ch

ơơơƠƠƠơơơ

Chiến tranh

Trong nước Lào chúng tôi bay tới Phonsavan bằng một chiếc máy bay nhỏ mười bốn chỗ ngồi . Phosavan là một thị trấn nhỏ mới nằm ở miền đông bắc nước này . Phố cổ Xieng Khuang cách đây 25 dặm đã bị chiến tranh phá hủy hoàn toàn , và thị trấn Phosavan trổ mọc lên thay thế . Khi chúng tôi bay tới gần Phonsavan , một phong cảnh miền núi rừng loang lổ hàng ngàn hố bom to bé chằng chịt , như một người mới khỏi bệnh thủy đậu . Về sau này chúng tôi mới khám phá ra thị trấn không còn một loại cây xanh nào sống sót . Vùng này vẫn trơ trọi có lẽ là hậu quả của chất độc da cam .

Khi chiếc máy bay vừa hạ cánh trên đường băng nhỏ , ánh tà dương đang tàn dần tỏa ra những tia sáng rạng ngời . Ở đó đã có một đám đông người H'Mong lố nhố chờ sẵn đứng đón chào những thân nhân của họ mà những người này ngày xưa từng tị nạn tại các tiểu bang Mỹ , và họ sống rải rác các thành phố San Diego, Missoula, Minneapolis . Khi chúng tôi vào một nhà ga (terminal ) nhỏ . Nó chỉ là một bin đinh nhỏ bé . Lúc này mặt trời đã lặn , trời tối đen như mực . Phố xá vẫn chưa lên đèn , có lẽ chừng 20 phút nữa chăng .

Tối đó chúng tôi ngủ trọ qua đêm ở nhà một người Lào . Họ cũng có 2 đứa trẻ như chúng tôi, và cùng lứa tuổi nhau . Thế là chúng sáp lại và bắt đầu tìm cách vui đùa với nhau . Chúng tôi ăn cơm tối chung với gia đình người Lào , uống bia hơi (local brew) và chuyện trò cho đến khuya . Người mẹ cao dong dỏng , điềm đạm , bà Savone từ miền Sainyabuli phía tây nước Lào . Ông bố thuộc giai cấp thượng lưu ở Viên Chăn , được gởi học an toàn bên Trung quốc khi ông lên 10 tuổi vào những năm 60 . Lúc 13 tuổi ông nhớ nhà quá , bỏ học tìm cách quay trở về Lào , và ông ta gặp quân Pathet Lào và đầu quân trở thành binh lính của họ . Ông và bộ đội ông sống núp trong các hang động phía đông bắc nước Lào và chiến đấu trong đến khi cuộc chiến tàn .

Ông Sousath nhìn có vẻ bằng tuổi tôi , cũng có thể kém hơn tôi một hai tuổi . Trong thời chiến tôi đã không tham gia , bạn bè anh em tôi cũng thế . Khi đăng ký quân dịch (nghĩa vụ quân sự) cơ hội để trúng tuyển cũng khá cao như chơi xổ số lô tô . Vào năm 1977 tôi đi qua Băng Cốc lần đầu , và sống trong một căn nhà ngoài bìa , sát một căn cứ không quân Mỹ . Chiến tranh vẫn còn đó : để lại trẻ con không cha , các quán bia và niềm bực bội . Hàng ngàn người Thái đã chết trong cuộc chiến , đấu tranh cho đồng lương quá thấp .

Ở Phosavan ngay lập tức chúng tôi được biết là không thể đi bộ ra ngoài con đường mòn , không thể đi dạo thơ thẩn vì sợ dẫm lên các quả đạn pháo chưa kịp nổ . Tất cả chúng tôi đều dòm chừng , xem xét cẩn thận những vỏ bom to nằm rải rác trên các con đường lộ đi ra hay trở lại ngôi chợ . Một ngày chúng tôi lái xe Jeep tới phố cổ Xieng Khuang , từng là thủ đô của vương quốc Tai Phuan mà chúng tôi đã đọc được trong sách vở , một thị trấn hoàn toàn kết hợp bởi các bộ tộc và mãi mãi bị cô lập nằm trong các rặng núi phía bắc xa vời . Người dân từ từ kéo đến Xieng Khuang lập nghiệp bên các hoang tích vỡ nát và xây cất các cửa tiệm mới . Chúng tôi đi ra chợ và kiếm bữa ăn trưa . Một vị sư già chợt đi ngang qua , tỏ vẻ muốn chuyện trò bằng tiếng Anh với Dom và Tashi (hai đứa con tôi) .

Đã hai mươi lăm năm kể từ khi Sài Gòn thất thủ .

HH 3/1/2009

Xin bấm vào đây để coi vài hình ảnh Tết của người H'mong 2008 : http://www.flickr.com/photos/2249104...946749/detail/

ơơơƠƠƠơơơ

Làng Sangkhom

Gần đây chúng tôi quay trở lại Sangkhom, một làng nhỏ nằm phía tây bắc Thái Lan trên dòng sông Mekong , nơi mà cách đây 10 năm chúng tôi được vài tuần vui chơi thỏa thích . Khi chúng tôi vừa đến có cảm giác lạc lỏng ngay . Những khu nhà sàn lúc trước chúng tôi ngủ trọ đã không còn nữa , có lẽ bị dòng nước sông Mekong cuốn trôi rồi chăng . Nhưng sau một lát tìm kiếm , chúng tôi tìm được một dãy nhà sàn cách đây không bao xa , kiểu nhà xây cất đơn giản na ná như nhau , mỗi căn đều có cửa sổ ngó ra hướng sông .

Các ngôi nhà sàn này thuộc sở hữu của hai vợ chồng ông bà Yigal và Nupiit . "Thực phẩm trong làng lúc nào cũng có sẵn " . Ông Yigal giải thích khi chúng tôi check-in ( vào kiểm tra , nhận phòng ) , "hoặc là ông bà báo trước tôi , ông bà có thể dùng cơm với chúng tôi . Bà Nupiit nhà tôi là người đầu bếp giỏi lắm ; thậm chí bà ta còn nấu ăn cho ban nhạc The Rolling Stones . "

Khi câu chuyện ấy xảy ra , chúng tôi chưa từng biết gì về ban nhạc The Rolling Stones , nhưng ông Yigal nói đúng đấy : bà vợ ông ta thật khéo nấu . Sanh ở Sangkhom , lớn lên ở đó và sinh sống ở miền nam Lào , nơi đây bố bà làm việc, bà ta nấu nướng theo kiểu ăn uống miền đông bắc Thái Lào , và đặc biệt am tường về các loài dã thảo (rau cỏ ngoài núi đồng ) . Ông Yigal , sanh ở Do Thái và khôn lớn ở thành phố New York , gặp bà Nupiit nhân một chuyến du lịch Thái Lan cách đây mấy năm , và chung sống với nhau từ đó . Cứ nửa năm họ sống trên một hòn đảo lớn ở Hawaii , còn lại thì về Sangkhom . Họ sống vui vẻ với nhau nhưng thật giản dị khiêm tốn , chỉ lấy tiền mướn hai hay ba đô la một đêm và bữa ăn cũng vậy . Ông Yigal có một cái đĩa sa tơ lai (satellite) , và về đêm ông ta thích thú xoay cái đĩa đó lòng vòng trên bầu trời , và để xem các kênh Nga , Ba lan , Miến Điện . Ngồi đây thật là thú vị khi coi truyền hình Ba lan trong một ngôi làng nhỏ bé ở đất Thái , lắng nghe dòng sông Mekong chảy rì rào và cảm thấy hơi sương lành lạnh .

Nhưng nó chưa vui thú hơn , khi được dùng thử các món bà Nupiit nấu và thưởng thức tài nội trợ dưới bếp của bà . "Ăn xôi nếp thì như thế này ," bà ta nói với hai đứa con tôi Dom , Tashi trong bữa cơm trưa đầu tiên chúng tôi ăn với nhau . " Con lấy tay bốc một nắm đầy rồi dùng tay kia bẹo đi một tí . " Rồi bà với tay ra ịn lên một miếng thịt bò chiên dòn . Trên bàn bày biện ít nhất chừng mười món khác nhau , sáu người chúng tôi ăn còn chưa hết . Cũng như ở bên Lào , một đĩa rau hấp : vài xắt bí ngô , vài miếng cải bắp , vài cọng đậu đũa . Một đĩa rau thơm với những cọng ngò tươi rói , hành lá xanh ngắt , vài miếng cần Tàu . Và tiếp theo là tất cả món nóng hổi : món tom yum (lẫu Thái ) cay xé lưỡi ; món tương ớt sao sa , đậm đà với những trái ớt , hành tây nướng thui ; món laab , thật cay nồng rắc thêm tí thính thơm nồng ; món cá ướp muối nhìn rất thường . Chúng tôi gắp từng miếng cá mềm ra ... Nếm vài miếng trong miệng , mùi vị hơi đăng đắng và là lạ (chắc nhằm vào khúc cá gần mật , hay bụng rồi ) , còn lại cũng dễ ăn , thơm tho như thường lệ . Một mâm cơm thịnh soạn tuyệt vời với đầy thức ăn , xanh xanh , đo đỏ (nâu ) và quá dư thừa . (1)

Chúng tôi dự định ở Sangkhom vài đêm , nhưng vui quá nên hai tuần rưỡi sau chúng tôi mới từ giả no' để lên đường , thật buồn khi phải ra đi , cám ơn ông bà Yipal và Nupiit .

Chú thích :

1. It was a beautiful table of food , green , earthy and abundant ; chữ earthy khó dịch , đất thì nâu đen hoặc có nơi đo đỏ nữa .

Hoang Hac 4 tháng 1 năm 2009